Điều quan trọng nhất cần hiểu về cuộc khủng hoảng dân số ở Nhật Bản là liên quan một phần đến hành vi. Ảnh: CNN.

 
Khánh Tú Thứ Năm | 07/03/2024 17:17

Khủng hoảng dân số ở Nhật Bản cần nhiều thập kỷ để giải quyết

Theo dữ liệu sơ bộ do chính phủ Nhật Bản công bố, số ca sinh mới đã giảm liên tục trong 8 năm và đạt mức thấp kỷ lục.

Khủng hoảng dân số đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết nhất của Nhật Bản, khi chính phủ không thể đảo ngược tác động kép là tỉ lệ sinh giảm và dân số già ngày càng gia tăng. Tỉ lệ sinh thấp khiến dân số suy giảm nhanh chóng, gây những hậu quả sâu rộng đối với lực lượng lao động, nền kinh tế, hệ thống phúc lợi và cơ cấu xã hội của Nhật Bản.

Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất gặp phải vấn đề này. Các nước láng giềng Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đang đối mặt với vấn đề tương tự. Điều này cũng xảy ra ở một số quốc gia châu Âu như Tây Ban Nha và Ý.

Theo dữ liệu sơ bộ do chính phủ Nhật Bản công bố, số ca sinh mới đã giảm liên tục trong 8 năm và đạt mức thấp kỷ lục, giảm 5,1% so với năm trước. Tương tự như Hàn Quốc, tỉ lệ sinh của nước này đang ở mức thấp nhất thế giới, đồng thời giảm so với năm 2023.

Khó để đảo ngược

Không giống với nhiều quốc gia phát triển có tỉ lệ sinh thấp như Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia Đông Á khác tránh việc sử dụng làn sóng nhập cư để gia tăng dân số trong nước. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, cuộc khủng hoảng ở Nhật Bản đã hình thành trong nhiều thập kỷ và tác động hiện đang diễn ra một cách rõ ràng.

Giáo sư xã hội học và nhân khẩu học James Raymo tại Đại học Princeton cho biết, điều quan trọng nhất cần hiểu về cuộc khủng hoảng dân số ở Nhật Bản là liên quan một phần đến hành vi. Để duy trì dân số ổn định, cần có quy chuẩn tỉ lệ sinh là 2,1. Tỉ lệ cao hơn sẽ dẫn đến dân số trẻ tăng, với tỉ lệ trẻ em và thanh thiếu niên cao như trường hợp ở Ấn Độ và nhiều quốc gia châu Phi.

Theo Giáo sư Raymo, tỉ lệ sinh tại Nhật Bản đã ở dưới mức 2,1 trong suốt 50 năm qua. Trên thực tế, tỉ lệ này đã giảm xuống kể từ sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ toàn cầu vào năm 1973. 

Tính đến năm 2023, tỉ lệ sinh của Nhật Bản chỉ ở mức 1,3. Mặc dù nó tương đối ổn định, nhưng vấn đề là tỉ lệ này luôn ở mức thấp trong thời gian dài. Một quốc gia có thể phục hồi nếu tỉ lệ giảm trong vài năm. Tuy nhiên, khi tỉ lệ này duy trì ở mức dưới 2,1 trong nhiều thập kỷ thì dân số trẻ đang dần ít hơn rất nhiều so với người cao tuổi.

Giáo sư Raymo cho biết, có nhiều lý do khiến tỉ lệ sinh ở Nhật Bản giảm, nhưng vấn đề chính ngay từ đầu là người dân không muốn kết hôn. Tình trạng cha mẹ đơn thân hoặc trẻ em sinh ra từ những bà mẹ chưa kết hôn ở Nhật Bản ít phổ biến hơn rất nhiều so với các nước phương Tây. Do đó, việc giảm số lượng cuộc hôn nhân cũng dẫn đến việc giảm số lượng trẻ em mới sinh.

Số lượng các cuộc hôn nhân ở Nhật Bản trong năm 2023 đã giảm gần 6% so với năm 2022, đây là lần đầu tiên con số này giảm xuống dưới mức 500.000 trong 90 năm qua, theo dữ liệu sơ bộ được công bố. Tỉ lệ ly hôn cũng tăng 2,6% trong năm ngoái.

Giới chuyên gia nhận định, chi phí sinh hoạt cao, nền kinh tế, tiền lương trì trệ không gian hạn chế và văn hóa làm việc khắt khe là những nguyên nhân khiến nhiều thanh niên Nhật Bản lựa chọn không muốn hẹn hò hoặc kết hôn. Theo cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu Dân số và An sinh xã hội (IPSS) năm 2022, ý định lập gia đình của người Nhật đã giảm đáng kể. Trong số những người trưởng thành độc thân chưa từng kết hôn, ít người cho biết họ có ý định kết hôn so với những năm trước. Khoảng 1/3 cho biết họ không muốn có một mối quan hệ ràng buộc.

Giải quyết khủng hoảng

Tác động của cuộc khủng hoảng dân số đã trở nên rõ ràng. Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động, việc tìm kiếm người lao động ngày càng khó khăn, số lượng thanh niên tham gia vào lực lượng lao động giảm đi hay một số khu vực nông thôn đang bên bờ vực suy thoái. Thậm chí, có ngôi làng đã trải qua 25 năm không có nhân khẩu mới.

Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động là hậu quả sâu rộng của khủng hoảng dân số. Ảnh: CNN.
Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động là hậu quả sâu rộng của khủng hoảng dân số. Ảnh: CNN.

Chính phủ đã dành nhiều năm để thúc đẩy nhiều sáng kiến khác nhau, nhằm khuyến khích việc kết hôn và sinh con bằng cách tăng cường dịch vụ chăm sóc trẻ em hoặc trợ cấp cho nhà ở. Thậm chí, một số thị trấn còn trả tiền cho các cặp vợ chồng để có thể có con.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy Nhật Bản sẽ tiếp tục chứng kiến tình trạng sụt giảm dân số dự kiến kéo dài ít nhất trong vài thập kỷ tới. Điều này sẽ là những đòn giáng mạnh mẽ vào hệ thống lương hưu, chăm sóc sức khỏe và cơ sở hạ tầng xã hội cũng như những lĩnh vực khó duy trì trước sự thu hẹp ngày càng nhiều của lực lượng lao động.

Giáo sư Raymo cho rằng, chính phủ Nhật Bản sẽ phải có những điều chỉnh hợp lý, nhưng vấn đề nằm ở thời gian. Để đạt được trạng thái cân bằng mới, giới chuyên gia liên tưởng đến đề xuất nhập cư hàng loạt, một điều mà đất nước mặt trời mọc chưa từng thực hiện.

Trên thực tế, nhập cư luôn là vấn đề gây tranh cãi tại Nhật Bản, quốc gia luôn có ý thức cao về phương diện đồng nhất sắc tộc. Trong quá khứ, nước này đã thất bại trong việc tích hợp làn sóng lao động nước ngoài và chỉ dựa vào các giải pháp tạm thời như tuyển dụng người nước ngoài theo thị thực sinh viên.

Tuy nhiên, sẽ không có lựa chọn nào khác. Một báo cáo của một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Tokyo vào năm 2022 cho thấy Nhật Bản cần số lượng lao động nước ngoài gấp 4 lần vào năm 2040 so với hiện tại đạt được các mục tiêu kinh tế của chính phủ.

Do đó, chính phủ đã có những động thái chuyển hướng chính sách trong những năm gần đây thông qua việc đưa ra các nhóm thị thực mới và xem xét các đề xuất cho phép một số công nhân lành nghề ở lại vô thời hạn. Các mô hình của IPSS dự đoán rằng, đến năm 2070, tốc độ giảm dân số dự kiến sẽ chậm lại một chút, chủ yếu là do làn sóng di cư quốc tế gia tăng.

Có thể bạn quan tâm:

G20 sẽ áp thuế tối thiểu toàn cầu lên giới tỉ phú?

Nguồn CNN