Biến đổi khí hậu cũng đã làm tăng tần suất và mức độ khắc nghiệt của thời tiết như lũ lụt, bão, hạn hán và gió mùa. Ảnh: shutterstock.com
Khắc phục khủng hoảng kế tiếp tại châu Á: Biến đổi khí hậu
Đối với các nước châu Á, tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng được khẳng định là cuộc khủng hoảng thế kỷ của cả khu vực chứ không phải đại dịch COVID-19. Các thành phố đang bị hiện tượng nước biển dâng cao đe dọa trong khi thời tiết thất thường ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh lương thực.
Nhưng châu Á không chỉ là nạn nhân của biến đổi khí hậu: khu vực này hiện chiếm tới 87% mức tăng khí nhà kính toàn cầu kể từ năm 1990 và mức phát thải CO2 tăng 78%. Một số nền kinh tế trong khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tình trạng biến đổi khí hậu, trong đó Ấn Độ, Indonesia và Philippines đã phải đối mặt với những thách thức to lớn trong việc giảm nghèo, cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, thực phẩm an toàn và nước uống. Việc bỏ qua tác động của con người lên tình hình biến đổi khí hậu sẽ trì hoãn khả năng giảm bớt sự bất bình đẳng và đạt được tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
Mực nước biển dâng cao gây ảnh hưởng đến các thành phố ở châu Á, có khả năng làm giảm GDP của Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia mỗi năm thêm khoảng 0,2-0,9% trong những thập niên tới. Cơ quan Hàng không - Vụ trụ Mỹ (NASA) dự báo, mực nước biển còn có thể tăng lên 65 cm vào năm 2100. Châu Á có 15 trong số 20 thành phố dễ bị mực nước biển dâng trên toàn thế giới tác động nhất.
Thủ đô Jakarta đã thấp hơn mực nước biển 4 m trong vòng 30 năm qua và trong thập niên qua, Chính phủ Indonesia đã chi 33 tỉ USD để xây dựng một thành phố thủ đô mới cùng các biện pháp khác. Ở Philippines, thủ đô Manila mỗi năm thấp hơn mực nước biển 10 cm.
Tại Việt Nam, gần 45% diện tích TP.HCM chỉ còn cách mực nước biển chưa đến 1 mét. Ngoài ra, 154 trong số 322 phường, xã tại TP.HCM thường bị ngập lụt thường xuyên (theo McKinsey Global Institute, tháng 4.2020). Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi thành phố 9 triệu dân này đóng góp đến 26% GDP cả nước trong năm 2019. Một kế hoạch bảo vệ toàn diện trong đó bao gồm việc xây dựng đê, tường chắn biển có thể tiêu tốn tới 52% GDP của Việt Nam vào năm 2050.
Biến đổi khí hậu cũng đã làm tăng tần suất và mức độ khắc nghiệt của thời tiết như lũ lụt, bão, hạn hán và gió mùa. Điều đó gây nguy hiểm cho an ninh lương thực lâu dài ở Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á và từ đây châm ngòi cho tình trạng lạm phát.
Thời tiết khắc nghiệt làm trầm trọng thêm tác động của thoái hóa đất và sa mạc hóa. Năng suất cây trồng có thể giảm 7-25% trong 30-50 năm tới, đồng thời biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến đánh bắt cá và chăn nuôi gia súc. Mỗi lần thế giới tăng thêm 1°C sẽ làm giảm 10% năng suất cây trồng của Trung Quốc đại lục do thời gian trồng trọt bị rút ngắn. Thay đổi mô hình gió mùa có thể làm GDP bình quân đầu người của Ấn Độ giảm xuống còn 2,8% vào năm 2050.
Tất cả các nền kinh tế châu Á đã cam kết một số hình thức giảm phát thải nhưng không phải tất cả đều đạt được mục tiêu của mình.Ảnh: cnn.com. |
Tuy nhiên, chính các quốc gia tại châu Á là một tác nhân gây biến đổi khí hậu. Riêng Trung Quốc đã chiếm 60% sự gia tăng khí nhà kính trên toàn cầu kể từ năm 1990. Phá rừng là nguyên nhân góp phần tạo ra lượng khí thải lớn ở Đông Nam Á khi đô thị hóa gia tăng và đất đai được chuyển sang khai thác trồng trọt, đặc biệt là các sản phẩm phổ biến như dầu cọ.
Sản xuất năng lượng chiếm 3/4 lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu và than đá đang được sử dụng để tạo ra 61% điện năng của toàn châu Á. Theo như kế hoạch trước đây, việc các quốc gia đang sử dụng than ngày càng nhiều thêm, bất chấp các lựa chọn tái tạo có chi phí thấp khác và 75% công suất phát điện mới ở các quốc gia ASEAN sẽ dựa trên than.
Tác động đến nhu cầu năng lượng từ dịch bệnh COVID-19 cùng với các giải pháp thay thế năng lượng tái tạo ngày càng hiệu quả về chi phí đang đem lại cho các nhà hoạch định chính sách cơ hội xem xét lại các kế hoạch sản xuất năng lượng. Giải quyết được hiện trạng sản xuất năng lượng nặng phát thải là rất quan trọng để thế giới tiến gần hơn đến mục tiêu của Thỏa thuận Paris là hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức 1,5°C.
Tất cả các nền kinh tế châu Á đã cam kết một số hình thức giảm phát thải nhưng không phải tất cả đều đạt được mục tiêu của mình. Trong khi tốc độ tăng phát thải đã giảm xuống kể từ khi thỏa thuận khí hậu được ký kết vào năm 2015, vẫn còn một số ngoại lệ bao gồm 3 trong số các nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á - Việt Nam, Bangladesh và Ấn Độ.