
Chế biến trà hoa vàng tại huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: TL.
Giấc mộng chưa thành trên mỏ vàng dược liệu
Vài năm trước, một nghiên cứu sinh Việt Nam đem loài giảo cổ lam còn có tên là “Thất diệp đởm” qua Hàn Quốc để thực hiện đề tài nghiên cứu dược liệu của mình. Nghiên cứu đã tìm ra được rất nhiều hợp chất mới trong cây giảo cổ lam này. Từ các nghiên cứu và những hợp chất mới được phân lập, phía Hàn Quốc đăng ký sở hữu trí tuệ thành công tại Mỹ, tạo ra được một sản phẩm thương mại hóa. Đây cũng là sản phẩm duy nhất từ thảo dược tại Hàn Quốc được công nhận có tác dụng đối với quá trình hồi phục năng lượng trong cơ thể.
Câu chuyện này cho thấy tiềm năng dược liệu tại Việt Nam, 1 trong 25 điểm nóng về đa dạng sinh học toàn cầu. Nhưng một thực tế là Việt Nam chưa khai thác tốt lợi ích từ kho tàng dược liệu của mình. Tôi lấy ví dụ về trái nhàu. Loại trái có giá trị dinh dưỡng cao này được trồng nhiều ở miền Tây, chủ yếu được bán sang các nước khác làm nước uống như Hàn Quốc. Hiện trái nhàu được bán ở thị trường nội địa với giá vài chục ngàn đồng/kg, nhưng nước nhàu lại được người Mỹ xuất khẩu, bán tại Việt Nam với giá lên tới 800.000-900.000 đồng/lít.
![]() |
Một ví dụ khác là quế. Trên thế giới có 3 loại quế là quế Việt Nam, quế Trung Quốc và quế Sri Lanka. Hàm lượng hoạt chất chính - cinnamaldehyde chiếm tới trên 90% trong tinh dầu quế Việt Nam, cao nhất trong các loại quế. Nhưng thế giới lại chủ yếu biết tới quế Trung Quốc thay vì quế Việt Nam. Đa số nguyên liệu quế thô được bán sang Trung Quốc, được nước này sơ chế và bán lại dưới mác Trung Quốc cho các nước khác. Đó là thực trạng đáng buồn.
Theo Viện Dược liệu (Bộ Y tế), Việt Nam có trên 12.000 thực vật bậc cao trên cạn. Số loài thực vật được sử dụng làm thuốc ước tính xấp xỉ 5.000 loài, nhưng thực tế, chỉ 1/5 trong số này được tiến hành nghiên cứu. Một nghịch lý khác là dù Việt Nam có nguồn dược liệu từ thực vật phong phú, nhưng khoảng 75% dược liệu của chúng ta là nhập từ Trung Quốc, chỉ tự chủ 25%. Nhiều dược liệu nhập khẩu không phải vì Việt Nam không trồng được mà số lượng trồng quá ít và manh mún, trong khi dược liệu là lĩnh vực phải được phát triển đồng bộ để đáp ứng các tiêu chuẩn làm thuốc một cách đồng nhất. Trồng dược liệu cần sự đồng nhất từ cây giống cho đến kỹ thuật chăm sóc, nhằm thỏa mãn các tiêu chuẩn làm thuốc mà dược điển đề ra và cũng góp phần giảm giá thành nguyên liệu khi trồng quy mô lớn. Nếu số lượng cây trồng tại một vùng không đủ lớn thì doanh nghiệp thu mua phải gom từ nhiều nơi, khiến chất lượng không đồng đều. Hoặc mỗi lần thu hoạch lại phải kiểm tra chất lượng của từng lô nguyên liệu, gây phiền phức và tốn kém. Vì trồng với diện tích nhỏ nên giá bán nguyên liệu sẽ cao do tốn công thu hoạch. Đã vậy, nhiều loại cây người dân trồng thì doanh nghiệp không cần và cây doanh nghiệp cần thì người dân lại không trồng.
Ngoài ra, công tác nghiên cứu cũng ảnh hưởng tới sự phát triển ngành dược liệu trong nước. Nhà khoa học ra được ý tưởng nhưng thiếu công cụ phục vụ nghiên cứu cũng như sự hỗ trợ ở các giai đoạn sau nghiên cứu để thực hiện đến bước thương mại hóa cuối cùng. Hơn nữa, nhà khoa học trong nước đang bị quá đa nhiệm khi vừa phải giảng dạy, vừa cho ra ý tưởng, xin cấp dự án nghiên cứu cũng như lo thủ tục giải ngân, quyết toán cho công trình khoa học của mình...
Thay vì đưa ra giải pháp, tôi lấy dẫn chứng về mô hình phát triển dược liệu đang được áp dụng ở các quốc gia mà tôi từng sống, học tập cũng như có thời gian tìm hiểu.
Áo, chẳng hạn, có khoảng 4.000 loài thực vật, chỉ bằng 1/3 Việt Nam, nhưng tỉ lệ nghiên cứu từ dược liệu thành thuốc lại rất cao. Họ sở hữu ít thực vật nhưng hoạt động nghiên cứu, bào chế thành thuốc được thực hiện gần như tới giai đoạn cuối cùng. Nhờ vậy, Áo tuy là nước có diện tích chỉ bằng 1/4 Việt Nam nhưng họ xuất khẩu thuốc là chính và nhập rất ít dược phẩm. Ví dụ, một số sản phẩm từ cây ban lá nhỏ (hypericum perforatum) được làm thành thuốc điều trị trầm cảm; một số loài echinacea nâng cao miễn dịch cơ thể, chữa cảm cúm rất phổ biến ở Áo và là những dược liệu có trong dược điển châu Âu.
![]() |
Để tiến hành được các hoạt động nghiên cứu như trên, tại Áo hay nhiều nước khác có mô hình phối hợp giữa các bên rất tốt. Hằng năm trường đại học cấp kinh phí cố định cho đội ngũ nhà khoa học để phục vụ công tác giảng dạy cho sinh viên và hoạt động của phòng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu cũng nộp hồ sơ để đăng ký làm dự án cho đối tác bên ngoài gồm các công ty dược và các nguồn kinh phí khác từ Chính phủ hay trong khối EU. Nguồn kinh phí được chi trả cho các dự án hợp tác này sẽ được nhà trường quản lý. Sau khi trừ chi phí quản lý quỹ, trường dùng số tiền để phân bổ cho hoạt động nghiên cứu của dự án gồm chi phí phát sinh khi thực hiện hay trả lương cho nhân sự cùng tham gia nghiên cứu. Nói chung, các nước khác có lực lượng hỗ trợ chuyên nghiệp cho nghiên cứu dược liệu.
Đối với hoạt động thương mại sản phẩm, tại Hàn Quốc, các trường đại học chuyên về nghiên cứu thường có công ty trực thuộc. Nhà khoa học chỉ lo nghiên cứu, lên ý tưởng và hiện thực hóa thành sản phẩm, công ty trong trường sẽ lo về marketing sản phẩm cũng như tiến hành thương mại hóa. Đó có thể là lý do vì sao thị trường dược liệu Hàn Quốc được ước tính trị giá hàng tỉ USD.
Một dẫn chứng khác là Trung Quốc. Nước này có nguồn dược liệu giá rẻ vì họ quy hoạch rất nhiều vùng trồng với diện tích lớn. Ngay từ khi trồng dược liệu, giống cây được lựa chọn cùng các phương pháp thu hoạch đã được cân nhắc để có thể cơ giới hóa nhằm phục vụ công tác thu hoạch được thuận lợi. Cơ giới hóa tối đa khi thu hoạch sẽ giảm chi phí dược liệu đầu vào khi chế biến các sản phẩm thuốc.
Thầy hướng dẫn luận án tiến sĩ của tôi là Giáo sư - Tiến sĩ Rudolf Bauer, Chủ tịch Ban Dược liệu của Hội đồng Dược điển châu Âu, nhân một lần sang thăm Việt Nam có nói với tôi rằng, với điều kiện hiện có, Việt Nam chỉ nên tập trung phát triển các dược liệu đặc trưng, tức những loài có ưu thế phát triển ở Việt Nam mà chỗ khác có ít hoặc không trồng được. Đây chính là lợi thế cạnh tranh để từ đó có nguồn lực phát triển dần ngành dược liệu.
Lấy sâm Việt Nam giống Ngọc Linh làm ví dụ. Giống sâm này sinh trưởng ở độ cao khoảng 1.500 m so với mực nước biển, điều kiện không dễ trồng nên nhiều quốc gia khác không có. Hay trà hoa vàng còn có tên gọi khác là “Vạn thọ trà”, loại dược liệu quý góp phần chống oxy hóa, chữa bệnh tim mạch, kéo dài tuổi thọ. Việt Nam có từ 40-60 loại trà hoa vàng, trong đó có nhiều loài đặc chủng, trong khi Trung Quốc không có. Trên thị trường, hoa của trà hoa vàng có thể được bán với giá lên đến hàng chục triệu đồng/kg khô. Đây là những dược liệu đặc trưng cần tập trung nghiên cứu, phát triển.
(Trần Chung ghi).
Có thể bạn quan tâm