Mặc dù các doanh nghiệp đều nhận thấy những rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu nhưng đa số vẫn rất thụ động. Ảnh: shutterstock.com.

 
Công Sang Thứ Bảy | 25/01/2025 07:00

Chuỗi cung ứng thích nghi

Thiệt hại trong các đợt thiên tai khiến các chuỗi cung ứng quan tâm nhiều hơn đến việc thích nghi với biến đổi khí hậu.

Năm 2011, trận lũ ở Thái Lan đã ảnh hưởng lớn đến nguyên vật liệu tại các nhà kho và thiệt hại đáng kể máy móc sản xuất dẫn đến sự sụt đổ hàng loạt trong chuỗi cung ứng từ nhà máy, đơn vị vận chuyển nguyên vật liệu cho đến đơn vị phát triển thị trường.

“Có rất nhiều điều phát sinh không thể lường trước một khi chuỗi cung ứng bị đứt gãy và thời gian hồi phục còn tùy thuộc vào mức độ của sự cố. Từ bài học của Thái Lan, không doanh nghiệp nào muốn gặp lại”, bà Quách Thị Hoài Bảo, Trưởng Bộ phận Quản lý Chuỗi Cung ứng Toàn quốc, DKSH Việt Nam, chia sẻ với NCĐT. 

Bà Bảo cho biết một năm, đơn vị của bà tiếp nhận khoảng 60 cuộc kiểm tra, đánh giá quy trình hoạt động từ khách hàng, cơ quan hữu quan và nội bộ. Bộ phận bà Bảo phụ trách là đơn vị phát triển thị trường bao gồm vận chuyển nguyên vật liệu đến nhà máy và hàng hóa ra thị trường cho doanh nghiệp, nên các cuộc kiểm tra như vậy là để tăng thêm khả năng thích ứng với việc xử lý sự cố, kể cả trong các trường hợp không lường trước như thiên tai, bão lũ.

Khả năng sụp đổ dây chuyền là lý do nhiều doanh nghiệp chuỗi cung ứng trong khu vực đang tìm cách thích nghi với biến đổi khí hậu. Trả lời NCĐT, bà Nguyễn Dạ Quyên, Giám đốc Công ty Tư vấn Chuỗi cung ứng CEL, cũng cho biết các công ty lớn đã bắt đầu triển khai Kế hoạch Kinh doanh Liên tục (Business Continuity Plan - BCP) nhằm hướng dẫn tổ chức phản ứng nhanh trước các sự kiện gián đoạn. Tuy nhiên, BCP thường chỉ là tài liệu tham khảo cho quá trình quản lý hơn là hướng dẫn thực tế khi các gián đoạn diễn ra.

Một số nhà đầu tư đã bắt đầu xem xét thận trọng hơn về vị trí đầu tư (đặc biệt là liên quan đến hạ tầng) để tránh những rủi ro không mong muốn, nhưng đây vẫn là trường hợp ngoại lệ. Theo ông Trịnh Việt Dũng, Giám đốc Phân hiệu Đông Nam Á, Đại học Kühne Logistics (Đức), nhiều doanh nghiệp trong khu vực châu Á đã phân tích chuỗi cung ứng của mình để xác định các điểm dễ bị tổn thương trước những rủi ro do biến đổi khí hậu như lũ lụt, bão hoặc hạn hán. Ví dụ như ở Nhật, nơi các doanh nghiệp sử dụng trí tuệ nhân tạo (A.I) để dự báo rủi ro và tối ưu hóa quy trình ứng phó. Hệ thống cảnh báo sớm động đất và sóng thần của Nhật là ví dụ tiêu biểu giúp giảm thiểu tổn thất và đảm bảo hoạt động liên tục trong tình huống khẩn cấp. Hay như Bangladesh đã chuẩn bị sẵn sàng cho bão và nước biển dâng bằng cách kết hợp các biện pháp sơ tán cộng đồng và bảo vệ các khu vực sản xuất quan trọng. “Các nền tảng phân tích dữ liệu lớn (Big Data) cũng có thể được triển khai để hỗ trợ đưa ra các quyết định chiến lược”, ông Dũng nói.

Mặc dù các doanh nghiệp đều nhận thấy những rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu nhưng đa số vẫn rất thụ động. Thiên tai và những gián đoạn bất ngờ khiến việc chuẩn bị trở nên khó khăn hơn và thị trường hiện tại chủ yếu mang tính chất “chờ và quan sát”. “Giống như các doanh nghiệp toàn cầu, mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thấp”, bà Quyên nói.

Theo bà Quyên, đây là vấn đề về tư duy, một dạng tâm lý vì không ai thích suy nghĩ về việc doanh nghiệp sẽ bị tác động nặng nề bởi một sự kiện, thiên tai ngoài tầm kiểm soát. Tư duy này cần xuất phát từ cấp lãnh đạo cao nhất, nhưng phần lớn đều đang ưu tiên cho các chiến lược nhằm giữ cho hoạt động doanh nghiệp ổn định trước nhu cầu thị trường đang suy giảm.

Sẽ cần nhiều nỗ lực để thay đổi tư duy của các nhà lãnh đạo, hoặc cần đến những trải nghiệm thực tế qua các sự kiện để doanh nghiệp thực sự cảm nhận được tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho những điều không thể tránh. Chuỗi cung ứng thích ứng với khí hậu có thể linh hoạt hơn nhưng không phải là bất khả xâm phạm. “Ví dụ rõ ràng là tình trạng nhà xưởng sau bão Yagi. Doanh nghiệp có thể xây dựng bền vững hơn nhưng thiệt hại là không thể tránh khỏi. Đây là vấn đề về thiết kế mạng lưới, cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm trong việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm phù hợp cho loại rủi ro này”, bà Quyên nói.

Mức độ đầu tư cho chuỗi cung ứng thích nghi cũng có thể là rào cản của các doanh nghiệp. Việc đầu tư giai đoạn nào, lúc nào nên thuê ngoài và làm sao đánh giá đối tác cung cấp dịch vụ cũng là điều cần cân nhắc. Ông Dũng của Đại học Kühne Logistics chia sẻ đối với doanh nghiệp bán lẻ, sản xuất và logistics nên phân bổ từ 3-5% doanh thu để xây dựng chuỗi cung ứng thích nghi. Với ngành dễ bị ảnh hưởng như nông nghiệp hoặc thực phẩm, tỉ lệ này có thể cao hơn (5-10%).

Về việc đầu tư, ông Dũng cho rằng các khâu liên quan đến chiến lược, phân tích rủi ro và quy trình nội bộ là công đoạn doanh nghiệp phải tự thực hiện. Ví dụ, sau thảm họa động đất Tohoku (Nhật) năm 2011, nhiều công ty tự đầu tư vào chiến lược tồn kho dự phòng để đảm bảo tính liên tục của chuỗi cung ứng. Các công đoạn như logistics hoặc giám sát chuỗi cung ứng, vốn cần rất nhiều vốn và kinh nghiệm, có thể thuê ngoài. Học hỏi từ Walmart và FEMA (Mỹ), doanh nghiệp có thể hợp tác với nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp để tối ưu hóa vận chuyển ngay cả trong điều kiện thiên tai.

Về việc đánh giá nhà cung cấp, ông Dũng cho rằng cần nhìn vào các dự án họ đã thực hiện, ví dụ các doanh nghiệp tại Hà Lan thường đánh giá cao nhà cung cấp có kinh nghiệm trong bảo vệ chuỗi cung ứng trước nguy cơ nước biển dâng. “Thứ đến là năng lực tài chính và công nghệ. Đảm bảo nhà cung cấp có nền tảng tài chính ổn định và các công nghệ hỗ trợ cho quản lý rủi ro”, ông Dũng nói.

Bà Bảo của DKSH Việt Nam thì cho biết thách thức lớn nhất trong quản lý chuỗi cung ứng khi xảy ra thiên tai là làm sao duy trì sự ổn định với các tình huống không báo trước. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thường xuyên đánh giá quy trình để nâng cao khả năng ứng phó và thích nghi. Khi xảy ra sự cố gián đoạn, 3 yếu tố cần được ưu tiên hàng đầu là đảm bảo đủ nhân sự, triển khai kế hoạch dự phòng và duy trì giao tiếp rõ ràng, kịp thời với khách hàng... Chẳng hạn, trong cơn bão Yagi, DKSH đã bố trí nhân sự xử lý, giảm rủi ro bằng cách thường xuyên cập nhật cho khách hàng về tiến độ giao hàng hằng ngày.

Một tiêu chí khác mà doanh nghiệp nên cân nhắc trước khi chọn đối tác chuỗi cung ứng là các sáng kiến giảm thiểu carbon của họ hằng năm. “Đó cũng là cách doanh nghiệp cùng chung tay hướng tới mục tiêu Net Zero của Chính phủ Việt Nam”, bà Bảo nói.