3 đặc trưng kinh tế Việt Nam hậu tái cơ cấu
Tiếp nối đợt TCT kinh tế được khởi đầu từ công cuộc Đổi mới theo tinh thần Đại hội VI , về triển vọng dài hạn và tổng thể, quá trình TCT theo tinh thần Đại hội XI lần này cần bảo đảm định hình và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI với 3 đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế đa sở hữu, trong đó các doanh nghiệp thuộc mọi khu vực, loại hình kinh tế đề bình đẳng, ngày càng giảm dần sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và tính chất trong nước - nước ngoài của doanh nghiệp cũng như các thị trường.
Khu vực kinh tế Nhà nước tiếp tục là lực lượng sản xuất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chủ yếu hoạt trong những lĩnh vực thuộc độc quyền Nhà nước liên quan đến an ninh quốc phòng, khai thác các tài nguyên quý, hiếm, hoặc tham gia kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực nhạy cảm quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo cơ sở cho sự ổn định lành mạnh và định hướng sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia.
Kinh tế tập thể sẽ tiếp tục được đổi mới và phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, thực chất hơn, quy mô phù hợp với thực tiễn thị trường và năng lực của đơn vị; cơ sở vật chất hiện đại và hoạt động theo cơ chế thị trường, mang dáng dấp đời sống của một doanh nghiệp cổ phần. Các loại hình trang trại và liên hiệp trang trại, liên hiệp HTX với quy mô lớn, kinh doanh tổng hợp kết hợp công - nông - lâm nghiệp và sinh thái sẽ trở thành mô hình có hiệu quả ở các vùng ngoại ô và địa phương.
Kinh tế có vốn ĐTNN sẽ tiếp tục phát triển theo hướng tăng cường cổ phần hoá, liên doanh, liên kết , nhưing loại hình 100% vốn nước ngoài (kể cả các doanh nghiệp cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài với nhau) sẽ tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong những lĩnh vực công nghiệp xuất khẩu nói riêng, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN nói chung; sẽ xuất hiện nhiều hơn các doanh nghiệp Việt Nam là đại lý, chi nhánh hoặc công ty con của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhất là trong các ngành sản xuất phụ trợ.
Cấu trúc doanh nghiệp theo xu hướng 2 tầng: Tầng trên là các doanh nghiệp lớn, mạnh cả về tài chính, công nghệ, hoạt động xuyên quốc gia và tổ chức theo mô hình tập đoàn, công ty mẹ – con; Tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được chuyên môn hóa sâu và có quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp khác, đồng thời chủ động tham gia liên kết vào các khâu của chuỗi giá trị kinh doanh toàn cầu.
Tính chất quốc tế hóa bao phủ ngày càng đậm nét và xuyên suốt các quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc tiếp cận các yếu tố “đầu vào” (nguyên liệu, công nghệ, nguồn vồn, thiết bị máy móc, kể cả nhân lực), đến quá trình tổ chức quản lý bên trong doanh nghiệp (cơ cấu tổ chức, công nghệ quản lý, các tiêu chuẩn chất lượng), cũng như việc thực hiện “đầu ra” cho các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp (thị trường, đối tác và các luật lệ, thể chế quốc tế). Các công ty cổ phần, đa sở hữu sẽ ngày càng trở thành hình thức chủ yếu trong tổ chức của doanh nghiệp. Các công ty tư nhân và công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn và có đóng góp ngày càng quan trọng hơn, trở thành động lực chính cho sự phát triển kinh tế tương lai của mỗi địa phương, cũng như cả nước.
Sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sẽ ngày càng đậm nét và hiệu quả hơn, cũng như ngày càng trở nên phức tạp, với sự tham gia đồng thời của tất cả các doanh nghiệp với đủ loại hình, quy mô, tính chất và trình độ phát triển khác nhau, ngày càng mang tính liên cấp, liên ngành, liên quốc gia trong sự tuân thủ các luật chơi và quy chuẩn chất lượng đồng nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ vừa có sự chuyên môn hóa sâu trong sản xuất -kinh doanh, vừa có sự năng động cao, sẵn sàng điều chỉnh, thay đổi, đa dạng hóa các mẫu mã, sản phẩm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước những biến động nhanh chóng của thị trường và đơn đặt hàng của đối tác.
Các doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ, chất lượng cao. Lao động trong các doanh nghiệp và trên thị trường lao động nói chung cũng sẽ có tính linh hoạt nhiều hơn và dần phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Nhu cầu thành lập hiệp hội những người chủ sử dụng lao động sẽ ngày càng đậm nét. Đồng thời, xuất hiện ngày càng phổ biến các hiện tượng phá sản, giải thể, chia tách và sáp nhập, mua bán chuyển nhượng các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những khả năng và biểu hiện độc quyền kinh tế kiểu mới, phi truyền thống, phi hành chính sẽ ngày càng hiện hình trong sự đa dạng, thậm chí rất tinh vi của nó.
Các tranh chấp và chấn động kinh tế, thương mại, lao động và các dạng tội phạm khác cả truyền thống và phi truyền thống, ngày càng mang tính quốc tế và liên ngành, có tổ chức hơn, trực tiếp và gián tiếp phát sinh từ quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng với mức độ phức tạp và gây hậu quả nặng nề hơn...
Thứ hai, đó là nền kinh tế ngày càng hướng vào khai thác các động lực và đáp ứng các yêu cầu phát triển theo chiều sâu và bền vững.
Khoa học công nghệ (nhất là công nghệ sạch, hiện đại), khả năng lao động tự giác, sáng tạo và trách nhiệm đạo đức của người lao động được tôn trọng (đặc biệt là bộ phận nhân lực trình độ, chất lượng cao; các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà khoa học, tư vấn các doanh nhân, các chuyên gia và thợ giỏi...) và ngày càng trở thành động lực phát triển kinh tế mạnh nhất của đất nước. Thông tin, khoa học - công nghệ và nhân tài trở thành động lực chính cho sự phát triển doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp trở thành một nghề chuyên nghiệp.
Đồng thời, các doanh nghiệp thành công cũng thường là các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thành công thương hiệu, cũng như văn hóa kinh doanh đặc sắc của mình và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội có liên quan của doanh nghiệp. Các yêu cầu bảo vệ môi sinh, bảo vệ thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu chất phát thải và phế liệu sản xuất sẽ ngày càng được đề cao, kiểm soát chặt chẽ với sự phát động, thúc đẩy và kiểm soát ngày càng nghiêm ngặt và hiệu quả hơn của bàn tay Nhà nước. Sự phát triển các tiềm năng và tự do cá nhân; sự hợp tác và thịnh vượng về kinh tế; sự đồng thuận, dân chủ và gắn kết về xó hội, hũa hợp và thõn thiện hơn với môi trường sẽ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của đất nước.
Thứ ba, đó là nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc và cơ chế thị trường mở phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế và có sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền.
Môi trường đầu tư - kinh doanh sẽ ngày càng đậm tính thị truờng hơn, bình đẳng và đồng nhất hoá giữa các loại hình doanh nghiệp, và tuân thủ đầy đủ và ngày càng phù hợp với các cam kết hội nhập và thông lệ kinh tế quốc tế. Sẽ có sự phân biệt rành mạch hơn chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh. Nhà nước sẽ chủ yếu can thiệp gián tiếp vào doanh nghiệp thông qua sử dụng đồng bộ các công cụ kinh tế - hành chính (trong đó công cụ kinh tế thị trường là chủ yếu) điều chỉnh "nồng độ" môi trường đầu tư - kinh doanh để định hướng hoạt động của các doanh nghiệp theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã thông qua, phù hợp đòi hỏi thị trường. Các cơ quan tư pháp sẽ được củng cố, được tôn trọng và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn. Các thiết chế thị trường sẽ được hình thành và phát triển đồng bộ, lành mạnh và ngày càng đóng vai trò bà đỡ, trực tiếp nuôi dưỡng, thẩm định và phán quyết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tổ chức đoàn thể, hiệp hội ngành nghề của doanh nghiệp cũng sẽ có sự phát triển, mở rộng quy mô, tính chất để trở nên có tính “mở” hơn, mang tính thị trường hơn, bao quát và thu hút ngày càng rộng rãi hơn các doanh nghiệp hội viên, không phân biệt nguồn gốc sở hữu, loại hình tổ chức và tính chất ngành nghề, địa phương. Vai trò hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ choc phi chính phủ sẽ ngày càng tăng và củng cố trong kinh tế, đồng thời mở rộng dần sang lĩnh vực xây dựng chính sách, cải thiện môi trường đầu tư và cả các lĩnh vực chính trị -xã hội khác.
Đặc biệt, trong quá trình tái cấu trúc đó, cùng với bàn tay thị trường, cần chủ động thực hiện hiệu lực và hiệu quả vai trò của bàn tay Nhà nước với tư cách nhạc trưởng thống nhất, người khởi xướng, định hướng và thúc đẩy chung, thông qua những Quy hoạch, kế hoạch, Đề án và Dự án tổng thể và chuyên ngành thích hợp, cùng với sự hỗ trợ của các công cụ luật pháp và ngân sách nhà nước, những chính sách thân thiện với doanh nghiệp, đào tạo lao động có kỹ năng cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh có tính định hướng cao, cũng như tăng cường các hoạt động điều tiết và giám sát khác… nhằm bảo đảm các ngành nghề đựoc định huớng ưu tiên phù hợp với điều kiện, tiềm năng kinh của VN tuơng lai, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ.
Trước mắt, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế cần bám sát các định huớng và yêu cầu sau :
Thứ nhất, tái cấu trúc về tài chính-đầu tư: Tạo thuận lợi đa dạng hóa nguồn lực và phương thức đầu tư phát triển; Tăng dần tỷ trọng đầu tư phát triển từ các nguồn ngoài NSNN. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất; Đồng thời, khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm trọng điểm, có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch; giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng; giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại; giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.
Đối với khu vực ngân hàng, khuyến khích đa dạng hóa sở hữu, loại hình, sản phẩm dịch vụ, hợp lý về quy mô; giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém; nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng thương mại; tăng cuờng trật tự kỷ cương trong việc sử dụng ngoại tệ; ổn định giá trị đồng Việt Nam, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường vàng và thị trường ngoại hối. Từng bước giảm tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại, tăng tỷ trọng huy động vốn từ thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp.
Thứ hai, tái cấu trúc ngành, sản phẩm và công nghệ: Tái cấu trúc theo từng ngành và theo cụm nhóm sản phẩm chủ lực, trên cơ sở thị trường có sự định hướng của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin phù hợp phương án chung của cả nước; hình thành các sản phẩm chủ lực quy mô lớn, có hiệu quả, các khu, vùng kinh tế đặc trưng và phát huy lợi thế so sánh chung của đất nước, của địa phương và của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.
Tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn (đến năm 2015, Việt Nam sẽ hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm quốc gia do các doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất dựa trên công nghệ tiên tiến); Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới, đảm bảo vai trò chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân; Gắn kết chặt chẽ giữa khoa học công nghệ với sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối, giữa các doanh nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Đầu tư mạnh hơn cho hệ thống bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.
Thứ ba, tái cấu trúc về doanh nghiệp: Mở rộng quá trình cổ phần hoá các DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khuyến khích việc mua bán và sáp nhập để phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu, kinh doanh đa ngành, hoạt động xuyên quốc gia; Đồng thời, loại dần các DN nhỏ, yếu kém sức cạnh tranh và không có triển vọng thị trường.
Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng chuyên môn hoá và sáng tạo, tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính; thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính trước 2015; nâng cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đặt các DNNN vì lợi nhuận vào môi trường cạnh tranh và quy định các chỉ tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán. Đổi mới mô hình tổ chức và quản trị tại các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn; đồng thời, hoàn thiện các quy định về quyền đại diện chủ sở hữu và người quản lý trong doanh nghiệp có vốn nhà nước, về cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cơ chế giám sát, kiểm tra và chế tài xử lý. Thực hiện công khai kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, có cơ chế, chính sách để thúc đẩy khu vực doanh nghiệp dân doanh tự TCT thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh.
Thứ tư, tái cấu trúc thị trường: Mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng hơn thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn, khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam; Khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do song phuơng và đa phuơng, khu vực và toàn cầu.
Quá trình TCT kinh tế Việt Nam được hỗ trợ bởi sự quyết tâm chính trị và đồng thuận cao; các tiềm năng và điều kiện trong nước; xu thế và cơ hội từ bên ngoài. Đồng thời, quá trình tái cấu trúc này cũng gặp không ít lực cản từ sự khó khăn trong phối hợp quá trình tái cấu trúc theo kế hoạch tổng thể rõ ràng; do lực cản từ lợi ích nhóm và yêu cầu bảo đảm sự hài hòa các mục tiêu trong quá trình tái cấu trúc kinh tế; cũng như những rủi ro thị trường và đầu tư từ tái cấu trúc, mà nổi bật là: Rủi ro về hiệu quả thị trường gắn với sự từ bỏ thị trường và sở trường, việc làm cũ, trong khi thị trường mới và sở trường mới chưa xuất hiện ngay và sức cạnh tranh mới chưa xác lập vững chắc; Rủi ro từ nguy cơ nợ nần gia tăng gắn với thiếu hụt nguồn vốn và sự gia tăng các khoản vay mới cho tái cấu trúc; Rủi ro từ sự lạm dụng, thất thoát và tham nhũng vốn mới cho những dự án đàu tư mới nhân danh tái cấu trúc, nhất là khu vực đầu tư công; Rủi ro từ việc lãng phí các dự án đầu tư dở dang theo mô hình đầu tư cũ…Những khó khăn và tủi ro trong TCT trên đây nếu không đuợc nhận diện và hoá giải tốt, có thể gây hệ quả trái mong đợi và làm nản lòng những quyết tâm tái cấu trúc tuơng lai
(Theo Tạp chí tài chính)