Vì sao doanh nghiệp Mỹ mãi không chịu đầu tư?
Nền kinh tế Mỹ đang khiến cho giới chuyên gia phân tích và nhà đầu tư cảm thấy bối rối. Các doanh nghiệp Mỹ đang trong cơn sốt tuyển dụng chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Bảng lương đã tăng mạnh với mức tăng trung bình 190.000 việc làm mỗi tháng từ tháng 5-7.2016. Cạnh tranh giành lao động đang đẩy cao giá nhân công. Mức tăng lương trung bình trong năm kết thúc vào tháng 7 là 3,4%, theo Ngân hàng Dự trữ Liên bang Atlanta. Người dân Mỹ cũng đang ra sức chi tiêu. Trong quý II năm nay, chi tiêu bình quân đầu người đã tăng với tốc độ hằng năm 5,5%, nhanh nhất trong vòng 1 thập niên qua. Tuy nhiên, GDP thực lại tăng trưởng chỉ 1,2% mỗi năm.
Mảng tối khiến bức tranh nền kinh tế Mỹ ảm đạm chính là đầu tư doanh nghiệp, vốn đã giảm 3 quý liên tiếp. Đầu tư doanh nghiệp hiện thấp hơn 1,3% so với cách đây 1 năm, mức giảm hằng năm mạnh nhất kể từ đầu năm 2010 khi nước này đang thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính. Nếu doanh nghiệp vẫn đang tuyển dụng lao động và người dân vẫn đang chi tiêu, tại sao đầu tư lại yếu ớt?
Ban đầu, nguyên nhân là do đà giảm giá dầu kéo dài. Giá xăng dầu rẻ hơn giúp người dân Mỹ hưởng lợi, với mức khoảng 1.300 USD mỗi hộ gia đình, nhờ đó đã đẩy mạnh tiêu dùng. Nhưng đồng thời giá dầu giảm cũng khiến cho đầu tư vào ngành dầu mỏ giảm tới hơn phân nửa trong năm 2015, khi các tập đoàn dầu khí ngưng các hoạt động khai thác. Đầu tư ở những lĩnh vực khác vẫn khả quan khi tăng 4,3%. Tuy nhiên, sang nửa đầu năm nay, tình hình đã không còn sáng sủa. Thậm chí sau khi đã loại trừ mảng dầu mỏ, đầu tư vẫn giảm xuống trong 6 tháng đầu năm.
Điều này phần nào cho thấy hiệu ứng lan tỏa từ lĩnh vực dầu mỏ sang các lĩnh vực khác. Khi các tập đoàn năng lượng siết chặt chi tiêu, các nhà cung cấp của họ cũng cảm thấy “khó thở”. Đáng nói là doanh nghiệp trong các lĩnh vực không dính dáng đến dầu mỏ cũng hạn chế đầu tư. Các công ty tài chính, chẳng hạn, đã đầu tư ít hơn 21% trong quý I/2016 so với cách đây 1 năm. Đầu tư thậm chí giảm xuống trong lĩnh vực hàng tiêu dùng thiết yếu.
Một số lý do có thể giải thích cho sự không mặn mà của doanh nghiệp. Đầu tiên là nhu cầu giảm đối với hàng hóa của họ. Các nhà xuất khẩu đã không mấy xông xáo do nhu cầu toàn cầu ảm đạm và đồng USD mạnh hơn. Nhưng điều đó lại khó lý giải cho diễn biến ở thị trường nội địa khi chi tiêu tiêu dùng vẫn mạnh và doanh nghiệp vẫn tuyển thêm lao động và tăng lương.
Thứ hai là tín dụng đã siết chặt hơn. Kể từ khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất vào tháng 12 năm ngoái, mức lãi suất trung bình mà các ngân hàng áp dụng đối với doanh nghiệp tăng khoảng 0,5 điểm phần trăm. Sau 5 năm duy trì chính sách nới lỏng, hiện ngày càng nhiều ngân hàng siết chặt hơn các tiêu chuẩn cho vay doanh nghiệp trong năm 2016, theo một khảo sát của FED.
Tuy nhiên, cũng khó mà nói rằng tín dụng siết chặt hơn đã góp phần kiềm hãm hoạt động đầu tư, vì các doanh nghiệp Mỹ vẫn rủng rỉnh tiền mặt với 1.700 tỉ USD tính đến cuối năm ngoái. Theo Hiệp hội Các chuyên gia tài chính, doanh nghiệp Mỹ đang tích lũy tiền mặt với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 7.2011.
Dù số việc làm gia tăng, chi tiêu tiêu dùng cải thiện nhưng đầu tư doanh nghiệp Mỹ lại sụt giảm. Ảnh: sg.finance.yahoo.com |
Như vậy, chỉ còn cách lý giải thứ 3: mặc dù chi tiêu mạnh, nhưng các doanh nghiệp cho rằng triển vọng ảm đạm trong tương lai sẽ làm giảm cơ hội kiếm lời của các khoản đầu tư dài hạn, từ đó khiến họ không mặn mà rót vốn đầu tư.
Có thể thấy, các nền kinh tế ngày càng phình to hơn khi gia tăng thêm người vào lực lượng lao động hoặc tạo ra nhiều hơn từ lực lượng lao động hiện tại. Mỹ lại không làm tốt ở cả hai điều này. Cơ quan Thống kê Lao động dự kiến lực lượng lao động sẽ tăng trưởng trung bình 0,5% mỗi năm từ năm 2014-2024, giảm so với mức 1,2% hằng năm giai đoạn 1994-2004, do dân số thế hệ baby boomer già đi và tỉ lệ sinh thấp.
Tăng trưởng năng suất cũng đã chững lại. Từ năm 2005-2015, sản lượng mỗi giờ làm việc đã tăng chỉ 1,3% mỗi năm, so với mức tăng 3% giai đoạn 1995-2005. Trong năm tính đến quý II/2016, năng suất đã giảm 0,4%.
Những người lạc quan cho rằng đây là do dư chấn kéo dài từ sau cơn suy thoái và tình trạng uể oải này sẽ sớm chấm dứt. Nhưng trường phái bi quan thì cho rằng vấn đề năng suất là căn bệnh kinh niên. Theo họ, những tiến bộ công nghệ đang ngày càng ít mang tính cách mạng hơn. Cho đến hiện tại, các số liệu đang “ủng hộ” trường phái bi quan. Thước đo tốt nhất những tiến bộ công nghệ là nhân tố năng suất tổng hợp (TFP). Năm 2015, TFP của Mỹ đã tăng chỉ 0,2% so với mức tăng 1,1% trong 2 thập niên trước khi diễn ra khủng hoảng tài chính.
Nền kinh tế Mỹ đang dần chững lại. Số công ty công nghệ khởi nghiệp trên mỗi 100.000 người đã giảm từ mức 160 vào năm 1977 còn 80 vào năm 2013, theo số liệu từ tổ chức Kauffman Foundation. Một phân tích gần đây của Goldman Sachs cho thấy tỉ trọng lao động làm trong những ngành cải tiến, được định nghĩa là có mức tăng trưởng cao hơn 3 điểm phần trăm so với tình hình lao động chung, đang giảm xuống.
Những doanh nghiệp nghĩ rằng tăng trưởng dài hạn sẽ chậm hơn thì khó lòng đầu tư nhiều hơn. Và giới chính trị gia cũng không dễ thúc đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Nhưng họ có thể gia tăng cạnh tranh, đơn giản hóa các quy định và thuế cũng như đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng và giáo dục. Tất cả những điều này sẽ giúp cải thiện năng suất ở nền kinh tế số 1 thế giới, từ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Đàm Hoa
Nguồn The Economist