Tại sao hầu hết dự báo về phát triển kinh tế đều sai
Trung Quốc theo dự báo sẽ sớm vượt qua Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế số 1 thế giới, và Ấn Độ với dân số khổng lồ của mình hoặc Việt Nam sẽ là Trung Quốc tiếp theo trong tương lai. Các chuyên gia dự đoán rằng Bắc Kinh sẽ sớm dẫn đầu nhóm BRIC - Brazil, Nga, Ấn Độ , và Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường duy nhất trong khi vai trò của phương Tây mờ nhạt dần. Điều này dẫn tới sự phổ biến của cụm từ viết tắt CIVETS (Colombia, Indonesia, Việt Nam , Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi xuất phát từ cụm từ MIST ( Mexico, Indonesia, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ).
5 năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra, phần lớn sự phấn chấn và những cụm từ viết tắt nêu trên trở nên quá lỗi thời. Tốc độ tăng trưởng trung bình của các nền kinh tế mới nổi đã giảm xuống 4% trong năm 2013. Khi dự báo thổi phồng mất dần, các nhà dự báo phải xem xét lại những sai lầm trong dự đoán của mình vào thời điểm đỉnh cao của sự bùng nổ các nước BRICs.
Lỗi của họ nhiều đến nỗi đếm không xuể. Những người dự đoán không coi các thị trường mới nổi như những câu chuyện cá nhân và bắt đầu gộp chúng vào một nhóm vô danh với từ viết tắt dễ nhớ nhưng vô nghĩa.
Họ quá tin tưởng vào tuyên bố của các lãnh đạo chính trị, những người chịu trách nhiệm về sự bùng nổ và bỏ qua các lực lượng toàn cầu khác, chẳng hạn như gói kích thích kinh tế của Mỹ và Châu Âu đã giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nhà dự báo cũng đưa ra dự đóan dựa trên một yếu tố duy nhất - nhân khẩu học. Trong khi nghiên cứu cho thấy một loạt các yếu tố phức tạp khác cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, các nhà dự báo đã mắc lỗi khi thực hiện phương pháp ngoại suy. Họ cho rằng xu hướng gần đây sẽ tiếp tục vô thời hạn và các nền kinh tế nóng sẽ tiếp tục phát triển nóng, bỏ qua bản chất vốn có tính chu kỳ của sự phát triển chính trị và kinh tế. Sự phấn chấn vượt qua tính khả thi - một quá trình làm sai lệch dự báo kinh tế.
Hội chứng đơn tử (Lý thuyết 1 yếu tố)
Lịch sử cho thấy phương pháp ngoại suy tuyến tính hầu như luôn luôn sai. Tuy nhiên, những chuyên gia bị thu hút bởi ý tưởng mơ mộng và ám ảnh của phương pháp này dường như không thể không áp dụng nó.
Trong những năm 1960, Philippines đã giành quyền đăng cai trụ sở chính của Ngân hàng Phát triển Châu Á vì cho rằng sự tăng trưởng nhanh chóng của quốc gia này vào thời điểm đó sẽ đưa Philippines trở thành ngôi sao của khu vực trong nhiều năm tới. Điều đó đã không xảy ra bởi trong thập kỷ tiếp theo, tăng trưởng kinh tế đã bị đình trệ do chính sách sai lầm của nhà độc tài Ferdinand Marcos (nhưng Ngân hàng Phát triển Châu Á vẫn giữ nguyên dự báo).
Tuy nhiên, phương pháp ngoại suy vẫn tiếp tục tồn tại, và trong những năm 1970, suy nghĩ như vậy đã dẫn các học giả Mỹ và cơ quan tình báo dự đoán tương lai thuộc về Liên Xô, và trong những năm 1980 sẽ thuộc về Nhật Bản.
Sau sự bùng nổ thị trường mới nổi của thập kỷ qua, phương pháp ngoại suy càng thêm bất hợp lý. Dự báo cho rằng các sức mạnh kinh tế trong thế kỷ 17 của Trung Quốc và Ấn Độ là bằng chứng cho thấy 2 quốc gia này sẽ thống trị trong thập kỷ tới, và thậm chí trong những thế kỷ tới.
Sự bùng nổ cũng cho thấy rõ một lỗi dự báo thường gặp khác: các dự đoán dựa vào các lý thuyết đơn tử. Sự bùng nổ của Trung Quốc một phần nhờ vào lao động giá rẻ của một quốc gia có dân số đang trẻ hóa, các nhà dự báo bắt đầu tìm kiếm các nền kinh tế phát triển nóng tiếp theo ở một quốc gia với đặc điểm dân số tương tự - mà họ bỏ qua thách thức trong việc phát triển một ngành sản xuất tiên tiến để tạo việc làm cho tất cả mọi người.
Đã từng có những người theo trường phái kinh tế tự do cho rằng một nhà nước minh bạch khuyến khích đầu tư là yếu tố quyết định, tuy nhiên dù là chính phủ dân chủ hay độc tài thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng không khác gì nhau trong thời kỳ hậu chiến tranh. Những người theo trường phái đạo đức kinh doanh cho rằng nợ luôn luôn là xấu (quan niệm này càng được củng cố sau cuộc khủng hoảng tín dụng năm 2008), mặc dù tăng trưởng kinh tế và tín dụng đi đôi với nhau.
Hạn chế của lý thuyết đơn tử là không theo sát các sự kiện đang diễn ra hoặc đánh giá quá cao những yếu tố tạo nên sự khác biệt cho mỗi quốc gia.
Một mặt, thể chế nhà nước và đặc điểm về dân số thay đổi quá chậm để có thể dự đoán rõ ràng về hướng đi của nền kinh tế.
Mặt khác, những người dự báo - những người cho rằng thay đổi về văn hóa và tăng trưởng kinh tế có cùng tốc độ mà không tính đến tốc độ thay đổi rất nhanh của văn hóa. Lấy Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ làm ví dụ, các nền dân chủ Hồi giáo lớn, nơi kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ đã phản bác lại quan điểm cho rằng Hồi giáo cản trở sự phát triển kinh tế.
Lý thuyết tổng quát thường không dự đoán được những gì sắp xảy ra. Những người theo quan điểm địa lý là yếu tố quan trọng không thể lường trước được sự phát triển mạnh mẽ trong thập kỷ qua của một số quốc gia có vị trí địa lý không thuận lợi, như các quốc gia không giáp biển như Armenia , Tajikistan , và Uganda. Ở Kazakhstan, giá dầu tăng cao đã giúp cho nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng kinh tế trì trệ kéo dài suốt thời kỳ hậu Xô Viết.
Tính chất rõ ràng mạch lạc của lý thuyết đơn tử đã tạo nên sức hấp dẫn của nó. Nhưng do những thuyết này bỏ qua những thay đổi nhanh chóng của cạnh tranh toàn cầu, tạo ra bức tranh kém thuyết phục để dựa vào đó mà lập kế hoạch cho 5-10 năm tới. Sự thật là các chu kỳ kinh tế ngắn, thường chỉ kéo dài 3-5 năm từ đỉnh tới đáy. Tình hình cạnh tranh có thể thay đổi hoàn toàn trong thời gian đó, dù thông qua đổi mới công nghệ hay thay đổi chính trị.
Tình hình hiện nay
Thật vậy, mặc dù các nhà dự báo không thừa nhận một điều là trong thập kỷ tới không có gì giống như thập kỷ đã qua, các ngôi sao kinh tế của thập kỷ tiếp theo chỉ là thứ bỏ đi của thập kỷ trước. Ví dụ, trước đây Mexico là một nền kinh tế trì trệ, thì hiện nay quốc gia này đã trở thành một trong những nền kinh tế triển vọng nhất ở Mỹ Latinh.
Và Philippines, đã từng bị cười nhạo, bây giờ là một trong những nền kinh tế nóng nhất trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng vượt 7%. 5 năm trước đây, trên trang bìa của The Economist Pakistan được gọi là "nơi nguy hiểm nhất trên thế giới", hiện nay quốc gia này bất ngờ có dấu hiệu ổn định tài chính.
Pakistan là một trong những thị trường chứng khoán có tốc độ tăng trưởng hàng đầu trên thế giới vào năm ngoái, mặc dù vẫn đứng sau Hy Lạp, một quốc gia có tốc độ tăng trưởng đáng ngạc nhiên hơn. Một loạt các số liệu kinh tế gần đây cho thấy Hy Lạp bị hạ bậc từ "thị trường phát triển" xuống thành "thị trường mới nổi", nhưng quốc gia này đã cắt giảm rất mạnh chi tiêu ngân sách chính phủ, cũng như về giá cả và tiền lương, giúp cho xuất khẩu có sức cạnh tranh lớn.
Những kinh nghiệm của các nước này cho thấy rõ chu kỳ chính trị đóng vai trò quan trọng đối với triển vọng của một quốc gia không kém gì chu kỳ kinh tế. Các cuộc khủng hoảng và suy thoái thường dẫn đến cải cách, có thể dẫn đến sự phục hồi hoặc bùng nổ về kinh tế.
Nhưng, thành công như vậy thì có thể dẫn đến kiêu ngạo và tự mãn – và tiếp theo là suy thoái. Sự bùng nổ của thập kỷ qua dường như lặp lại kịch bản này, vì gần như tất cả các quốc gia mới nổi tăng trưởng đồng loạt và suy thoái hoàn toàn cùng lúc.
Nhưng, khủng hoảng tài chính năm 2008 đã đẩy các nước mới nổi quay trở lại chu kỳ cũ. Các ngôi sao kinh tế trước đây như Brazil , Indonesia, và Nga đang mờ dần do quản lý kém hoặc tự mãn. Theo Bộ trưởng Tài chính Indonesia, Muhammad Chatib Basri "thời kỳ tồi tệ làm nảy sinh ra những chính sách tốt, và thời kỳ thuận lợi làm cho chính sách kém hiệu quả."
Bí quyết để thoát khỏi cái bẫy này là các chính phủ phải duy trì chính sách đúng đắn ngay cả trong lúc thuận lợi – đây là cách duy nhất một thị trường mới nổi chớp lấy cơ hội để bắt kịp với các nước phát triển. Nhưng làm như vậy quả là rất khó khăn. Trong thời kỳ sau chiến tranh , chỉ khoảng một chục quốc gia - một số nước ở nam Châu Âu ( như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha ) và Đông Á ( như Singapore và Hàn Quốc ) - đã đạt được điều này, đó là lý do tại sao một chỉ 35 quốc gia trên thế giới được coi là “các nước phát triển ".
Trong khi đó, có rất nhiều khó khăn mà các quốc gia phải đối mặt để gia nhập hàng ngũ những nước phát triển do khó tăng năng suất lao động và đẩy mạnh cải cách. điều này tương tự như con người trở nên béo phì khi giàu có và nghĩ rằng thời kỳ thịnh vượng mới chỉ bắt đầu. Thường thì sự thành công này chỉ là thoáng qua. Trong thế kỷ trước, các nước Argentina, Hy Lạp và Venezuela đều đạt mức thu nhập như phương Tây nhưng sau đó giảm trở lại.
Hiện nay, cùng với Mexico và Philippines, Peru và Thái Lan cũng đang trên đà phát triển. Bốn quốc gia này đã có chung một đặc điểm của các ngôi sao kinh tế trong những thập kỷ gần đây: một nhà lãnh đạo chính trị uy tín, am hiểu về cải cách kinh tế và được đa số ủng hộ. Tuy nhiên, sự phấn khích cần phải được kiềm chế. Giai đoạn cải cách như vậy thường kéo dài từ 3-5 năm. Vì vậy, thế kỷ tiếp theo sẽ không phải là của Philippines hay Mexico.
Biện pháp cân bằng
Nếu các nhà dự báo không cần phải tính toán nhiều về thời gian, thì họ vẫn cần phải chú ý tới những vấn đề phức tạp sẽ nảy sinh. Để duy trì tăng trưởng nhanh chóng, các nhà lãnh đạo phải cân bằng một loạt các yếu tố, và tính đến nhiều thay đổi khi đất nước trở nên thịnh vượng hơn. Các dự án đơn giản, chẳng hạn như làm đường, có thể thúc đẩy một nền kinh tế yếu kém hơn là đấy mạnh sự phát triển công nghệ tiên tiến quá sớm, do việc phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản sẽ nhanh chóng mang lại lợi ích.
Hàng loạt các yếu tố này sẽ thay đổi theo điều kiện kinh tế. 5 năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bùng nổ tăng trưởng tín dụng vẫn là một vấn đề nan giải, đặc biệt khi nó tăng nhanh hơn so với GDP.
Trên thực tế, tăng trưởng tín dụng quá mức là gánh nặng cho các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc - quốc gia dựa vào tín dụng để duy trì tăng trưởng kinh tế. Khi được coi là một Trung Quốc tiếp theo, Việt Nam thậm chí còn vượt Trung Quốc trong lĩnh vực này, nhưng kết quả đã không như mong muốn: Việt Nam đã phải chịu suy thoái kinh tế do nợ và bây giờ quốc gia này bắt đầu tái cơ cấu hệ thống tài chính và đóng cửa các ngân hàng yếu kém.
Để giữ cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, các nhà lãnh đạo cần phải đảm bảo tăng trưởng đựa trên sự cân bằng các tài khoản quốc gia (không quá phụ thuộc vào vay nợ), cân bằng lợi ích của các tầng lớp xã hội (không tập trung trong tay một vài tỷ phú), phát triển đồng đều các khu vực địa lý (không tập trung vào thủ đô), các ngành công nghiệp sản xuất (không tập trung vào các ngành công nghiệp dễ tham nhũng như dầu).
Và những nước mới nổi phải cân bằng tất cả những yếu tố này trên cơ sở phù hợp với mức thu nhập của nước họ. Ví dụ, Brazil đang chi tiêu quá nhiều để xây dựng một nhà nước phúc lợi quá lớn đối với một quốc gia có thu nhập trung bình là 11.000 USD. Trong khi đó, Hàn Quốc , một đất nước có thu nhập bình quân gấp 2 lần Brazil, lại chi quá ít cho các chương trình phúc lợi xã hội.
Nhiều nhà lãnh đạo coi suy thoái kinh tế là ở thời nào cũng có, và là vấn đề tất yếu của sự phát triển, nhưng trong thực tế , đây là vấn đề cân bằng ngay cả đối với tham nhũng và hối lộ. Bất bình đẳng có xu hướng xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế và sau đó sẽ tăng cao và giảm xuống khi thu nhập đầu người vào khoảng 5000 USD.
Kiến thức địa phương
Không có một lý thuyết nào bao gồm hết kiến thức của địa phương. Người dân địa phương thường biết trước nền kinh tế đi về hướng nào trước khi các dự báo được đưa ra. Ngay cả trước khi nền kinh tế của Ấn Độ bắt đầu chậm lại, doanh nhân Ấn Độ đã biết trước sụt giảm tăng trưởng kinh tế do hàng hoạt các vụ hối lộ ở nước này. Tăng chi phí hối lộ quan chức chính phủ trong nước khiến họ phải đầu tư ra nước ngoài, mặc dù các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đổ tiền vào Ấn Độ.
Điều này cho thấy cần phải nghiên cứu kỹ thực tế của từng địa phương. Các nhà phân tích tập coi Trung Quốc như là một trường hợp điển hình về mức đầu tư quá cao vào các thị trường mới nổi, do đầu tư chiếm gần 50% GDP, một mức độ chưa từng có ở bất kỳ quốc gia phát triển nào. Nhưng sự rủi có chỉ được thấy rõ khi nhà đầu tư tới Trung Quốc và thấy tiền đầu tư được đổ: vào các thị trấn không có người dân và các tòa nhà không có người ở.
Nhà kinh tế có xu hướng không nghiên cứu kỹ yếu tố con người và chính trị, những yếu tố này không thể định lượng và đưa vào các mô hình dự báo. Thay vào đó, họ nghiên cứu chính sách thông qua số liệu kinh tế, chẳng hạn như chi tiêu chính phủ hoặc lãi suất. Nhưng, những con số đó không thể nói lên được sự năng nổ của Tổng thống Mexico, Enrique Peña Nieto, hoặc của Philippines Benigno Aquino III khi họ xóa bỏ độc quyền, hối lộ , và sa thải các các quan chức yếu kém.
Bất kỳ phương pháp tiếp cận thực tế nào để dự báo sự thành công của nền kinh tế mới nổi phản ảnh được thực tế này và trạng thái thường xuyên thay đổi của cạnh tranh toàn cầu. Một nhà dự báo tương lai cần phải theo dõi một loạt các yếu tố từ chính trị tới tín dụng và đầu tư, để đánh giá triển vọng tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia mới nổi trong 3-5 năm tới - khung thời gian hợp lý duy nhất cho các nhà lãnh đạo chính trị, doanh nhân, nhà đầu tư.
Đây là một phương pháp dự báo thiết thực về sự thăng trầm của các nền kinh tế trong thời điểm hiện tại và trong tương lai gần: trong thập kỷ này, chứ không phải là thập kỷ tiếp theo hoặc xa hơn nữa. Nó có thể không quá ảm đạm. Nhưng sự suy thoái gần đây cho thấy bức tranh có thể còn ảm đạm hơn nữa.
Nguồn Dân Việt/FOREIGN AFFAIRS