Nguồn ảnh: The Economist
Sự phụ thuộc của thương mại toàn cầu và một triển vọng phá bỏ ngôi vua của USD
Theo The Economist, sụp đổ tiền tệ là một tình trạng dễ gây tổn thương cho nền kinh tế. Nó làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, cắt giảm ngân sách hộ gia đình và tăng chi phí của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế cũng cho rằng điều này vẫn mang lại sự cứu cánh của riêng nó. Hàng nhập khẩu đắt hơn sẽ thúc đẩy các sản phẩm nội địa và qua đó thúc đẩy sản xuất trong nước. Hơn nữa, đồng tiền mất giá có nghĩa là hàng xuất khẩu đột nhiên rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài. Điều đó cũng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài.
Hệ thống thương mại quốc tế hiện nay có một vấn đề lớn đó chính là sự chi phối của đồng USD trong thương mại toàn cầu. Colombia hầu như không giao dịch bằng đồng Peso mà chủ yếu bằng đồng USD. 98% đơn hàng xuất khẩu của Colombia thực hiện bằng USD. Số lượng giao dịch bằng đồng USD vượt xa số lượng hàng hoá xuất và nhập khẩu giữa Mỹ và Colombia. Đây là một ví dụ điển hình cho thấy sự thống lĩnh đồng USD trong thương mại làm suy yếu những lợi thế mà tỉ giá hối đoái linh hoạt mang lại. Và khi đồng USD mạnh lên, thương mại toàn cầu có xu hướng thu hẹp lại.
Đồng USD chiếm lĩnh trong giao dịch toàn cầu. Nguồn ảnh: The Economist. |
Với việc xuất hiện của đồng euro, các nhà kinh tế và chính trị của Liên minh châu Âu hy vọng rằng đồng tiền này sẽ xoá bỏ vị trí độc tôn của đồng USD. Tuy nhiên, từ 1999 - 2014, thương mại bằng đồng euro chỉ bằng khoảng 1,2 lần thị phần nhập khẩu toàn cầu của khu vực đồng euro.
Những kẻ thách thức khác dường như còn thất bại thảm hại hơn. Dữ liệu ít ỏi của Trung Quốc cho thấy: Năm 2013 chỉ có 17% giao dịch thương mại của Trung Quốc được thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ. Và năm 2012 chỉ có khoảng một nửa số thương mại như vậy được lập hóa đơn bằng đồng Nhân dân tệ.
Để tránh các lệnh trừng phạt tài chính, Nga gần đây đã chuyển hướng khỏi đồng USD khi thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc đang muốn vươn lên soán ngôi đồng USD. Nguồn ảnh: The Wall Street Journal. |
Dù thế nào đi chăng nữa thì các nhà kinh tế hiện nay vẫn đang loay hoay tìm câu trả lời lý giải cho vị thế độc tôn của 1 loại tiền tệ trong thương mại toàn cầu.
Có một gợi ý là sử dụng cùng một loại tiền tệ của phương tiện khi định giá cho một thị trường nhất định sẽ giúp các công ty tránh được những biến động giá thất thường so với đối thủ cạnh tranh của họ. Hay một gợi ý khác là sự gia tăng của chuỗi cung ứng toàn cầu khiến nhiều nhà xuất khẩu nhập nhiều nguyên liệu đầu vào hơn. Việc lập hóa đơn hàng nhập khẩu và hàng hóa xuất khẩu bằng cùng một loại tiền tệ sẽ bảo toàn tỉ suất lợi nhuận của họ trong trường hợp đồng tiền mất giá.
Tất nhiên lập luận trên không đề cập đến một đồng tiền cụ thể nào. Nhưng rõ ràng là đồng bạc xanh đã thống trị thế giới tài chính. Các ngân hàng trung ương tích trữ 58% dự trữ ngoại hối chính thức của họ bằng đồng USD. Nó là đơn vị tiền tệ toàn cầu được lựa chọn khi phát hành chứng khoán. Các ngân hàng cũng sử dụng nó cho khoảng một nửa các giao dịch xuyên quốc gia. Theo dữ liệu từ hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT, đồng USD được sử dụng trong 40% thanh toán quốc tế.
Thật vậy, thế giới tài chính và thương mại gắn liền với nhau. Các nhà xuất khẩu vay bằng USD sẽ muốn định giá bán hàng nước ngoài của họ bằng cùng một loại tiền tệ, để bảo vệ khỏi sự mất giá đột ngột sẽ làm tăng giá trị khoản nợ của họ. Các tài sản được tính bằng USD mang lại cho chủ sở hữu của chúng sự an toàn hơn, vì chúng sẽ giữ giá trị của chúng so với hàng nhập khẩu được định giá bằng USD.
Sau khi xác định tầm quan trọng của sự thống trị của đồng USD đối với thương mại toàn cầu, các nhà kinh tế đã cập nhật hiểu biết của họ về sự thay đổi tỉ giá hối đoái. Ở Mỹ, giá được tính bằng USD có nghĩa là nhu cầu nhập khẩu không bị ảnh hưởng bởi các cú sốc tỉ giá hối đoái.
Thay đổi tỉ giá hối đoái cuối cùng sẽ có tác động, nhưng nó sẽ diễn ra một phần và chậm hơn. Một nghiên cứu chỉ ra rằng, hai năm sau sự thay đổi tỉ giá hối đoái, chỉ 44% ảnh hưởng của nó mới được nhìn thấy đối với giá cả ở Mỹ. Sau khi đồng USD giảm giá 1%, khối lượng hàng nhập khẩu vào Mỹ giảm 0,003%.
Tất cả những điều này cho phép nước Mỹ tận hưởng những gì được mô tả là "sự hẹp hòi có đặc quyền". Việc điều chỉnh giảm giá đồng USD gần như hoàn toàn thông qua xuất khẩu, vốn ngay lập tức trở nên rẻ hơn ở thị trường nước ngoài. Ngược lại, việc phá giá đồng USD ở các nước khác lại khiến họ bị ảnh hưởng. Việc mua hàng nhập khẩu trở nên khó khăn hơn, trong khi họ không nhận được lượng xuất khẩu bổ sung so với các mô hình cũ được đề xuất.
Thu nhập bằng USD của các nhà xuất khẩu sẽ đáng giá hơn bằng nội tệ. Điều này khiến một số nhà xuất khẩu mở rộng quy mô. Nhưng điều đó cần có thời gian. Và lợi ích thường được bù đắp bởi chi phí đầu vào nhập khẩu cao hơn. Trên khắp thế giới, giá hàng hóa nhập khẩu tương đối không phản ứng với biến động tỉ giá hối đoái song phương.
Sự thống trị của đồng USD có nghĩa là thương mại cũng dễ bị ảnh hưởng bởi chu kỳ tài chính toàn cầu. Một nghiên cứu của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế cho thấy, đồng USD tăng giá khiến các ngân hàng phụ thuộc vào tài trợ bằng USD để thu hẹp nguồn cung tín dụng của họ.
Thương mại là một ngành kinh doanh cần tài chính. Các nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu khao khát được thoát khỏi sự kìm kẹp của đồng USD. Điều đó dường như khó xảy ra. Sự thống trị của đồng USD là kết quả của hàng triệu quyết định cá nhân, mỗi quyết định dường như là tối ưu, mà kết hợp lại dẫn đến các vấn đề tập thể. Mỗi lần giảm giá trị của đồng USD dẫn đến một loạt các cuộc bàn tán đầy mơ mộng về sự sụp đổ của đồng USD. Nhưng thật khó để biết làm thế nào điều ước đó có thể thành hiện thực. Tuy nhiên, ít nhất, trong một thời gian, sự suy yếu hiện nay đã tạo nên một dấu hiệu cho triển vọng đó.
Có thể bạn quan tâm: