Nước nào sẽ thắng trong chiến tranh tiền tệ?
Satyajit Das, một trong 50 nhân vật ngành tài chính có sức ảnh hưởng lớn nhất năm 2014, nhận định rằng sẽ không nước nào là kẻ thắng trong một cuộc chiến tiền tệ.
Đã một năm trôi qua kể từ khi Trung Quốc bất ngờ phá giá nhân dân tệ (NDT), gây chấn động thị trường thế giới và dấy lên lo ngại về cuộc chiến tiền tệ toàn cầu. Trung Quốc đã xoa dịu lo ngại bằng cách kiểm soát NDT kể từ đó.
Phải chăng chỉ bằng một động tác, Trung Quốc đã có thể xoa dịu thị trường. Thực tế không phải như vậy, không một ai, kể cả Trung Quốc, có thể thắng trong cuộc chiến tranh tiền tệ ngày hôm nay.
Tuy vậy, sức cám dỗ của việc đạt được lợi thế trước đối thủ cạnh tranh bằng đồng tiền rẻ hơn không bao giờ suy giảm. Trước hết, phá giá tiền tệ là cách giữ lời hứa thúc đẩy xuất khẩu bằng cách giúp hàng hóa trở nên rẻ hơn. Khi một nước vay khoản nợ lớn nước ngoài bằng đồng nội tệ, đồng tiền yếu hơn cũng tạo ra sự dịch chuyển tài sản từ người gửi tiết kiệm nước ngoài. Phá giá cũng có thể kích thích lạm phát vì chi phí hàng nhập khẩu cao hơn đẩy tăng giá bán.
Những năm gần đây, chính phủ các nước hạn chế can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ, ưu tiên sử dụng chính sách tiền tệ để kéo giảm giá trị nội tệ. Những chính sách này - đáng chú ý nhất là ở Nhật Bản và châu Âu - được cho là nhằm đẩy tăng nhu cầu. Nhưng các hộ gia đình và doanh nghiệp vẫn chần chừ trong việc vay thêm tiền cho việc tiêu dùng hoặc đầu tư. Thay vào đó, lãi suất thấp và trong một số trường hợp âm cũng làm giảm chi phí trả nợ, gây áp lực lên đồng tiền.
Hiện vẫn chưa rõ chiến lược phá giá ngầm này có mang lại lợi ích nào lớn hơn hay không. Một điều rõ ràng là đồng tiền yếu hơn không còn đảm bảo xuất khẩu sẽ tăng. Nhu cầu nước ngoài vẫn ảm đạm do tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm tốc. Tăng trưởng thương mại liên tục giảm mạnh kể từ năm 2014.
Hơn nữa, sự phức tạp của chuỗi cung ứng toàn cầu ngày nay với hoạt động sản xuất trải rộng khắp nhiều nước cũng làm giảm lợi thế của một đồng tiền yếu. Khi yên mạnh, các hãng sản xuất ôtô Nhật Bản chuyển cơ sở sản xuất đến những khu vực rẻ hơn ở nước ngoài; họ sẽ không hồi hương các nhà máy này trừ khi tin rằng yên sẽ không tăng giá một lần nữa.
Theo ước tính mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), việc hạ giá nội tệ để thúc đẩy xuất khẩu giai đoạn 2004-2012 chỉ có hiệu quả bằng 1/2 so với 8 năm trước đó.
Tại nhiều nước, xuất khẩu trở nên ít quan trọng hơn so với trước xưa. Chẳng hạn, nhập khẩu và xuất khẩu của Mỹ, quốc gia tương đối khép kín, chiếm khoảng 20% GDP nước này. Trong khi châu Âu thì phụ thuộc nhiều hơn và thương mại, hầu hết là trong khu vực FTA – nơi nhiều quốc gia sử dụng một đồng tiền chung.
Trường hợp của Trung Quốc thì phức tạp vì nước này hiện hoạt động chủ yếu như một trung tâm sản xuất, lắp ráp, sử dụng lao động nội địa, để biến linh kiện nhập khẩu thành sản phẩm trung gian hoặc thành phẩm. Do vậy, nhân dân tệ yếu hơn có tác động ít hơn đến hoạt động kinh tế so với trước kia.
Các lĩnh vực then chốt như sản xuất tiên tiến, công nghệ thông tin, dược và giải trí ít có khả năng chịu ảnh hưởng bởi sự biến động tiền tệ nhờ hàm lượng sở hữu trí tuệ cao, cạnh tranh hạn chế và hợp đồng dài hạn. Dịch vụ, ngành đóng vai trò ngày càng quan trọng ở đại lục và nhiều nước khác, thì gần như mang tính bản địa. Một trong bốn việc làm ngành sản xuất ở Mỹ liên quan đến thương mại, trong khi chỉ có 6% việc làm ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng tương tự.
Một vài nước thì chỉ đơn giản là tự vệ tốt hơn trước các loại hàng hóa giá rẻ. Những nước này liên tục đưa ra các quy định hạn chế thương mại, từ chính sách mua sắm rất hạn chế đến quy định tỷ lệ nội địa hóa nhằm hỗ trợ các nhà cung cấp trong nước. Nhiều nước còn trợ cấp và hỗ trợ tài chính cho các hãng sản xuất trong nước. Năm 2015, số lượng các biện pháp phân biệt đối xử mà các chính phủ đưa ra tăng 50% so với năm 2014, trong đó, nhóm G20 chiếm hơn 80%.
Cuối cùng, cần nhớ rằng những yếu tố khác có thể xóa tan bất kỳ lợi thế nào có được từ việc phá giá đồng tiền. Sự biến động và bất ổn luôn có xu hướng kéo giảm đầu tư kinh doanh trong dài hạn. Đồng tiền yếu hơn cũng làm giảm sức mua của người dân. Euro đã mất 30% giá trị so với USD kể từ năm 2011, khiến thu nhập và sự thịnh vượng của người tiêu dùng khu vực eurozone cũng giảm theo. Australia - phụ thuộc lớn và nhập khẩu - cũng mất lượng sức mua tương tự. Kết hợp với thu nhập trì trệ, điều này chỉ khiến nhu cầu toàn cầu giảm hơn nữa.
Một cuộc chiến tiền tệ chỉ có thể tìm ra người thắng nếu chỉ có một nước phá giá nội tệ. Các nước không thể cùng lúc có đồng tiền rẻ nhất, song điều này không có nghĩa là họ không cố gắng giành lợi thế trước đối thủ. Cơ hội thành công của họ giờ đây thấp hơn bao giờ hết.
Nhật Trường
Nguồn Bloomberg