Thứ Bảy | 28/12/2013 14:16

Những bài học về đầu tư của Keynes

Trước cả Benjamin Graham, Warren Buffett, George Soros hay David Swensen, chúng ta đã có một nhà đầu tư vĩ đại là John Maynard Keynes.

Ai cũng biết(1883 – 1946) là nhà kinh tế học vĩ đại người Anh, người đã khai sinh ra kinh tế học vĩ mô hiện đại, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Lí thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (The General Theory of Employment, Interest, and Money). Bên cạnh việc nghiên cứu chính sách tài khóa và tiền tệ của các chính phủ, ông còn mở đường cho sự ra đời của rất nhiều lí thuyết về đầu tư mà ngày nay đã được cả thế giới công nhận.

Xét trên một phương diệnnào đó, Vào nhữngnăm 1920, ông đầu cơ vào tiền tệ, mà nổi bật là việc đầu cơ vào các quỹ tìm kiếm lợi nhuận từ các biến động của chính sách lãi suất (macro hedge fund). Tiếpđó, vào những năm 1930, ông chuyển hướng sang đầu cơ chứng khoán. Bên cạnh việckiếm được rất nhiều tiền từ các khoản đầu tư này, ông cũng không dưới 2 lần phảichịu tổn thất to lớn. Những tổn thất khiến ông quyết định chuyển từ đầu cơ sangđầu tư.

Cuốn sách (tạm dịch: “Đường tới giàu có của Keynes”) do nhà báo tài chính kìcựu - John F.Wasik viết, đã tiết lộ câu chuyện bí mật này. Sau khi thu thập đượctài liệu từ thư viện King’s College của đại học Cambridge (Anh), Wasik đã đưara những lập luận thuyết phục chứng minh rằng Keynes là một trong những nhà đầutư vĩ đại trong nửa đầu thế kỉ XX và chỉ ra những bài học quý giá cho các nhà đầutư hiện nay.

Một sự thực thú vị màcuốn sách này tiết lộ là không phải phần lớn cuộc đời của Keynes gắn liền với việcđầu tư. Keynes là một thành viên của nhóm Bloomsbury - một vòng kết nối xã hộinổi tiếng với các thành viên đều theo chủ nghĩa không tưởng hoặc cấp tiến.

Quan điểm độc đáo củaKeynes đã được biết đến rộng rãi trong cuốn sách “The Economic Consequences ofthe Peace” (tạm dịch: “Những hậu quả kinh tế của hòa bình”). Hòa ước Versailles năm1919 về chấm dứt Thế chiến thứ nhất với chiến thắng của phe Hiệp ước đã buộcchính phủ nước cộng hòa Weimar (nước Đức ngày nay) phải bồi thường chiến phí. Đểgiảm bớt tác động tiêu cực mà Hòa ước gây ra cho mình, chính phủ Weimar đã chủđộng gây ra tìnhtrạng lạm phát tiền tệtrong nước. Và trong cuốn sách của mình, Keynes đã tiên liệu rằng Hòa ước nàyvà lạm phát phi mã tại nước cộng hòa Weimar sẽ mở đường cho sự ra đời của Đế chếthứ ba do Adolf Hitler lãnh đạo.

Cuốn sách này không lâusau đã trở thành cuốn sách bán chạy trên khắp thế giới, giúp Keynes rút ra bàihọc về sự sinh lợi của đồng tiền. Wasik viết: “Keynes tin rằng, đồng Franc Pháp,Reichsmark Đức và Lira Italia sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi lạm phát sau chiếntranh”. Nhưng lợi nhuận của ông nhanh chóng bốc hơi khi đồng Mark hồi phục do sựlạc quan nhất thời của giới đầu tư.

Để đối phó sau đó, ông đã chuyểnhướng sang . Say sưa nghiên cứu hàng nghìn trang tài liệu khôkhan tại thư viện Cambridge, Wasik đã vô cùng kinh ngạc vì sự thích ứng nhanh củaKeynes khi quyết định đầu tư vào hàng nghìn loại hàng hóa. Song mọi thứ đã sụpđổ vào năm 1929 do cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu 1929 – 1933. Cuốn sách có đoạn viết: “Tất cả công việc kinh doanh của Keynes lao dốc thảm hại khi cầu về hànghóa sụp đổ. Quan điểm vĩ mô của việc cố gắng dự đoán xem nền kinh tế đã biến độngthế nào và kết nối kinh doanh tiền tệ với thương mại hàng hóa theo linh cảm đãthất bại trên bình diện rộng”.

Mất tới 80% giá trị tàisản ròng là một hồi chuông báo động cho Keynes. Vì vậy, ông đã thay đổi căn bảnviệc đầu tư của mình, tập trung nhiều hơn vào vốn cổ phần. Cuốn sáchviết tiếp “Hậu quả của vụ bán tháo cổ phiếu tồi tệ nhất trong lịch sử là khiếnKeynes trở thành người đi ngược lại xu thế chung” khimua các cổ phiếu có diễn biến không tốt so với mặt bằng chung trên thị trường. Bêncạnh các cổ phiếu có giá trị vốn hóa cao, ông cũng mua các cổ phiếu có vốn hóanhỏ và vừa nhưng trả cổ tức cao như cổ phiếu của các công ty dầumỏ hay công ty công ích.

Mục đích của ông là muarẻ và nắm giữ trong thời gian không xác định để chờ thời cơ. Năm 1938, ông nhấnmạnh đến “sự lựa chọn cẩn thận của một vài khoản đầu tư xét về mức độ rẻ và giátrị tiềm năng trong tương lai”.

Keynes cũng được coi làTheo Wasik, những nhà kinh tế trướcKeynes cho rằng đầu tư công nghĩa là “mua và nắm giữ trái phiếu”. Các cơ quancông quyền ở Anh chỉ có 3% tài sản dưới dạng cổ phần năm 1920 và đến năm 1937 mớiđạt 10%. Với việc quản lí danh mục vốn đầu tư cho King’s College và 2 công ty bảohiểm Anh, Keynes đã phá vỡ khuôn mẫu với việc triển khai đa số danh mục vốn đầutư dưới dạng vốn cổ phần.

Ông cũng tin tưởng vàolí thuyết những rủi ro đối nghịch (opposed risks) với việc quyết định nắm giữ nhiều loại tài sản khácnhau để bù đắp thiệt hại và hạn chế rủi ro như trái phiếu,bất động sản và vàng.Đây chính là tiền đề cho học thuyết về đa dạng danh mục vốn đầu tư sau này.

Với việc sử dụng công cụđòn bẩy hiệu quả cho danh mục đầu tư tại King’s College, Keynes chínhlà một “điểm sáng” trên thị trường trong suốt những năm 1930, khi mà cuộc đạisuy thoái kinh tế thế giới 1929 – 1933 nổ ra. Ngoại trừ việc mất tới 2/3 số tàisản của mình trong cuộc suy thoái năm 1938 ở Mỹ do việc rút lại các gói kíchthích kinh tế; tài sản của Keynes hầu như tăng và đã lên tới 36 triệu USD (tínhtheo giá trị năm 2013) khi ông qua đời năm 1946.

Các bài học do Keynesđúc rút ra vẫn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới tận ngày nay. Thiết nghĩ, các nhà đầutư cần cân nhắc để lựa chọn đúng loại tài sản để đầu tư và kiên định với chiếnlược đầu tư đó. Đứng lên mạnh mẽ sau thất bại chính là bài học quý giá nhất màKeynes để lại.

Nguồn Market Watch/Dân Việt


Sự kiện