Chính sách siết visa dưới thời Trump khiến các đại học Mỹ lo lắng về tài chính và nguy cơ mất vị thế toàn cầu. Ảnh: The Economist.

 
Thứ Hai | 09/06/2025 16:00

Mỹ loay hoay giữa khủng hoảng du học sinh

Lệnh hạn chế visa dưới thời ông Trump đang giáng đòn nặng lên các trường đại học Mỹ, nơi vốn trông cậy vào du học sinh để duy trì tài chính.

Nếu từng hy vọng Tổng thống Donald Trump sẽ sớm ngừng công kích giới học thuật, thì các hiệu trưởng giờ đây lại càng sửng sốt với loạt phát ngôn gần đây của ông nhằm vào sinh viên quốc tế. Hồi tháng 5, chính quyền Trump tuyên bố không cho phép Đại học Harvard tuyển sinh viên nước ngoài, một động thái dường như mang tính trừng phạt sau khi trường làm phật lòng Nhà Trắng (dù lệnh này hiện đã bị tòa án tạm dừng). Đồng thời, chính phủ cũng ngừng sắp lịch phỏng vấn visa mới cho sinh viên nước ngoài, bất kể họ định học ở đâu.

Không chỉ gây tổn hại đến danh tiếng của Mỹ và năng lực nghiên cứu, những chính sách bất ổn này còn khiến các phòng kế toán trong hệ thống đại học toàn quốc phải “đứng ngồi không yên”.

Thực tế, nhiều trường đại học và cao đẳng Mỹ đã gặp khó khăn tài chính từ trước khi ông Trump trở lại chính trường. Mối quan tâm của người dân với giáo dục đại học đã giảm sút sau nhiều năm tăng trưởng nóng. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông lên thẳng đại học đã giảm từ 70% năm 2016 xuống còn 62% vào năm 2022. Hồi tháng 12, hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s cho biết, 1/3 đại học tư và 1/5 đại học công của Mỹ đang hoạt động trong tình trạng thâm hụt.

Những thay đổi nhân khẩu học sắp tới có thể khiến tình hình thêm u ám. Theo một ước tính, tổng số học sinh tốt nghiệp phổ thông tại Mỹ có thể giảm 6% vào năm 2030 và tới 13% vào năm 2041. Ảnh hưởng sẽ khác nhau giữa các khu vực. Một số bang ở vùng Đông Bắc và Trung Tây, vốn có mật độ đại học dày đặc do yếu tố lịch sử, có thể chứng kiến mức sụt giảm có thể lên đến 1/3.

Sinh viên quốc tế không phải là “thuốc chữa bách bệnh”, nhưng có thể giúp các trường phần nào giảm bớt nỗi đau tài chính. Hiện có khoảng 1 triệu sinh viên quốc tế đang học tập tại Mỹ, gấp đôi con số năm 2000. Họ thường phải đóng học phí cao hơn nhiều so với sinh viên trong nước, có nơi cao gấp 3 lần, theo ông William Brustein, người từng phụ trách chiến lược quốc tế cho nhiều trường đại học. Hơn một nửa số du học sinh theo học chương trình sau đại học, vốn là nhóm mang lại lợi nhuận đặc biệt cao.

Dù có nhiều sinh viên quốc tế hơn bất kỳ quốc gia nào khác, Mỹ vẫn còn dư địa lớn để tăng trưởng. Thực tế, tỉ lệ sinh viên quốc tế chỉ chiếm khoảng 6% trong hệ thống giáo dục đại học, trong khi tỉ lệ này tại Anh, Úc và Canada, đều trên 25%. Tuy nhiên, hiện nay, kỳ vọng tăng trưởng gần như đã không còn. Nguy cơ trước mắt là lượng sinh viên quốc tế nhập học trong kỳ mùa thu sắp tới có thể sụt giảm mạnh, kéo theo nguy cơ suy giảm lâu dài khi các thế hệ ứng viên tương lai chọn học ở những quốc gia thân thiện hơn.

Câu hỏi lớn đặt ra là ai sẽ là người chịu thiệt nhiều nhất nếu làn sóng du học “hạ nhiệt”? Thoạt nhìn, các trường danh giá nhất có vẻ dễ tổn thương, khi sinh viên quốc tế chiếm 28% tại Harvard và tới 40% tại Columbia. Nhưng những trường này có nhiều nguồn tài chính đa dạng. Năm ngoái, học phí và chi phí ký túc xá chỉ chiếm khoảng 20% tổng thu của Harvard. Trong khi đó, tại các trường tư ít tên tuổi hơn, con số này vượt quá 80%. Nhu cầu học tại các trường top đầu hầu như không bị ảnh hưởng dù kinh tế có biến động hay có thể tăng học phí nội địa nếu cần.

Tác động thực sự có thể rơi vào các trường hạng hai và ba, nơi du học sinh không quá đông nhưng lại đóng vai trò lớn trong cân đối ngân sách. Nhiều trường công đã gia tăng tuyển sinh quốc tế để bù đắp việc bị cắt giảm tài trợ từ ngân sách bang. Những trường có tiếng tăm hơn trong nhóm này có thể thu hút sinh viên Mỹ từ các bang khác, những người phải trả mức học phí cao hơn. Các trường còn lại buộc phải thuê đại lý và đội ngũ tiếp thị để tuyển sinh nước ngoài.

Nếu số lượng du học sinh sụt giảm mạnh, ngay cả những trường vốn không có sinh viên quốc tế cũng có thể bị ảnh hưởng. Bởi nếu các trường danh tiếng chuyển sang tuyển sinh trong nước để bù đắp, điều đó đồng nghĩa với việc các trường ít nổi tiếng hơn càng khó tuyển sinh và có thể rơi vào thế khó khăn tài chính.

Tại Anh, những thay đổi gần đây trong chính sách visa đã khiến lượng sinh viên quốc tế giảm mạnh. Năm ngoái, có tới 40% trường đại học ở Anh dự báo sẽ thâm hụt ngân sách.

Nếu những thay đổi này chỉ khiến các trường yếu kém, không có sức hút với sinh viên phải đóng cửa, thì đó có thể là điều không đáng lo. Nhưng nguy cơ lớn hơn là sự xuất hiện của các “vùng trắng giáo dục”. Đồng thời, các trường sống nhờ danh tiếng chứ không nhờ chất lượng giảng dạy thực chất có thể lại được hưởng lợi. Cuộc chiến của ông Trump với Ivy League có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa rộng hơn nhiều so với những gì ông hình dung.

Có thể bạn quan tâm:

Nước Mỹ đánh mất hào quang thương hiệu?