Kẻ thắng, người thua trong cuộc phục hưng ngân hàng bán lẻ (Kỳ cuối)
Hoạt động ngân hàng chịu ít tác động một cách đáng ngạc nhiên trước sự phát triển của internet. Hoạt động ngân hàng có thể bao gồm nhiều hình thức số hóa như cho phép khách hàng tiếp cận trực tuyến tài khoản của họ, nhưng thập niên vừa qua, ngân hàng bán lẻ tập trung vào thế giới thực nhiều hơn môi trường trực tuyến. Vào thời điểm khi các hoạt động kinh doanh từ cửa hàng âm nhạc đến đại lý du lịch đều biến mất khỏi những vị trí dễ nhìn trên các con phố lớn, ngành ngân hàng – một ngành vào giữa những năm 1990, theo một số ước tính, đã có mạng lưới bán lẻ nhiều hơn bất kỳ một cửa hàng tổng hợp nào ở Mỹ - đã thiết lập nhiều hơn nữa số chi nhánh.
Nhiều ông chủ ngân hàng cảm thấy tự mãn. Từng được cho biết rằng thẻ tín dụng, ATM và điện thoại sẽ lần lượt biến đổi hoàn toàn hoạt động kinh doanh, rồi sau đó nhận thấy hoạt động kinh doanh vẫn tiếp tục như xưa, các ông chủ ngân hàng đang hoài nghi những dự đoán tương tự đối với internet. Những người quyết định sử dụng công nghệ số từ rất sớm đã phải gánh chịu chi phí lớn trong việc xây dựng hệ thống máy tính mới trên nền hệ thống lỗi thời đang sử dụng chỉ để hưởng một chút lợi ích tức thời. Francisco González, chủ tịch và giám đốc điều hành BBV, đã so sánh việc này này với sự thay đổi động cơ trên xe tải khi chiếc xe đang giảm tốc trên đường.
Nhưng thái độ hoài nghi trước kia về việc số hóa hiện đang đe dọa đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng không có chuẩn bị gì cho tương lai. “Công nghệ hiện đang ở thời điểm tạo bước ngoặt. Trong vài năm tới, bạn sẽ thấy sự xuất hiện cách thức rất mới để làm mọi việc, và việc đánh giá các ngân hàng mà đang thực hiện những công việc đã nêu sẽ thay đổi đáng kể”, ông González cho biết. Sự dịch chuyển giao dịch ngân hàng và khách hàng từ chi nhánh ngân hàng sang điện thoại di động và internet hứa hẹn làm biến đổi không chỉ cách thức gửi tiền của người dân mà cả nơi/người họ sẽ gửi tiền.
Sự hấp dẫn của nguồn tiền giá rẻ
Tác động thứ nhất của việc số hóa trên diện rộng có thể là sự biến đổi cơ sở chi phí của các ngân hàng đang tiến hành số hóa. Ví dụ, Santander có tỷ lệ chi phí/doanh thu ở mức 45%, thấp nhất trong số các ngân hàng quốc tế quy mô lớn (xem biểu đồ 6). Mức chi phí thấp như vậy cho phép các ngân hàng đưa ra lãi suất cho vay và lãi suất huy động hấp dẫn hơn, nhưng vẫn kiếm được mức lợi nhuận đủ để làm hài lòng các cổ đông.
Điều này có nghĩa là những ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn chắc chắn sẽ giành được miếng bánh lớn trong thị trường tập trung, như Anh, và thôn tính những đối thủ yếu hơn và kém hiệu quả hơn tại thị trường phân mảnh như Mỹ. Việc này có thể rất hữu ích trong việc khôi phục lợi nhuận cho một doanh nghiệp đang chịu áp lực lớn của các quy định về tỷ lệ vốn cao hơn, vào thời điểm khi số tiền tài trợ cho hoạt động bán buôn ngày càng đắt đỏ hơn hoặc đang cạn kiệt.
Các ngân hàng địa phương quy mônhỏ có thể chịu ảnh hưởng lớn nhất. Khi người tiêu dùng tiến hành nhiều hoạt độngngân hàng trực tuyến và trên điện thoại di động của họ hơn, thì tầm quan trọngcủa việc duy trì các chi nhánh trên các con phố ngày càng giảm. Hiện nay ngườita chủ yếu tập trung vào những ứng dụng ngân hàng di động (mobile banking)thông minh hơn (và tốn kém) và những công cụ cho phép người tiêu dùng tích hợpdữ liệu của họ và quản lý toàn bộ tài khoản chỉ bằng một màn hình.
Các nhà quan sát từ lâu đã dựđoán về hiện tượng “vùng trũng” trong hoạt động ngân hàng, trong đó chỉ nhữngngân hàng rất lớn và hiệu quả và những ngân hàng nhỏ và mang tính địa phương sẽphát đạt. Chi phí công nghệ ở mức cao và lợi nhuận nó mang lại đang khiến bảngcân đối nghiêng về phía các ngân hàng rất lớn và chống lại ngân hàng nhỏ hoặcngân hàng cộng đồng. Và mặc dù các ngân hàng lớn, chủ yếu tập trung vào hoạt độngkinh doanh nội địa – như Well Fargo ở Mỹ, Itaú ở Brazil và Lloyds ở Anh – đangcó nhiều lợi thế lớn tại thị trường nội địa, nhưng họ cũng đang đối mặt với nhiềuthách thức mới.
Đối với các ngân hàng thống trịthị trường nội địa, trở ngại lớn nhất cho sự phát triển là việc làm sao duy trìsự hài lòng của cơ quan quản lý nhà nước. Ngân hàng là một trong những hoạt độngchịu sự kiểm soát và điều chỉnh nghiêm ngặt nhất. Do cuộc khủng hoảng tàichính, quy định về hoạt động ngân hàng được tăng cường và nghiêm ngặt hơn. Việcnày cản trở sự cải tiến và nâng cao rào cản đối với những người muốn tham gia.Rất nhiều thử nghiệm và cải tiến trong ngành ngân hàng chỉ diễn ra ở bên lề: tạođiều kiện thuận lợi cho việc thanh toán hoặc tìm ra cách thức mới để xử lý dữliệu. Nếu công nghệ mới đe dọa phá vỡ trật tự hiện có, dẫn đến bất ổn tàichính, thì các nhà quản lý có thể sẽ có hành động “trấn áp”.
Việc này có thể khiến các ngân hàng Mỹ hướng chú ý ra thị trường nước ngoài, thậm chí khi các đối thủ cạnh tranh quốc tế như Santander và BNP Paribas bắt đầu giành được thị phần tại thị trường Mỹ. Cũng đã xuất hiện một số đối thủ mới. Ngân hàng Standard của Nam Phi hiện đã có chi nhánh khắp châu Phi. DBS của Singapore đang mở rộng ra khắp châu Á và trở thành đối thủ cạnh tranh đáng nể đối với các ngân hàng quốc tế quy mô lớn như Standard Chartered, HSBC và Citigroup tại một số thị trường tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới.
Đến nay, hoạt động ngân hàng bán lẻ (không giống hoạt động đầu tư và bán buôn – thường là các doanh nghiệp quốc tế quy mô lớn cạnh tranh trên thị trường thế giới) vẫn chưa phát triển mạnh, nhưng đang thay đổi vì hai lý do. Thứ nhất là việc số hóa cuối cùng sẽ tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô trên phạm vi quốc tế. Các ngân hàng ngày càng có khả năng tập trung hóa hệ thống máy tính và sử dụng cùng một cơ sở nền tảng.
Jan Verplancke, giám đốc phụ trách thông tin của Standard Chartered, cho biết, các ngân hàng quốc tế xây dựng hệ thống máy tính quy mô lớn tại những nơi có mạng lưới điện và viễn thông đáng tin cậy nhất và ít có nguy cơ thiên tai nhất. Đối với Standard Chartered, điều này có nghĩa là vận hành mạng lưới toàn cầu ngoài Hong Kong và London. Đến gần đây, hệ thống không tương thích đang gây khó khăn cho ngân hàng này trong việc sử dụng hệ thống máy tính nhất quán tại nhiều nước khác nhau. Hiện mọi việc đang dễ dàng hơn, khi hoạt động ngân hàng dịch chuyển từ hệ thống máy chủ quy mô lớn sang mạng lưới máy chủ nhỏ hơn mà có thể tăng quy mô khi cần.
Lý do thứ hai giải thích tại sao sự quốc tế hóa ngày càng mở rộng là cái mà ông Rodeia của McKinsey gọi là “lợi thế nhờ kỹ năng” (economies of skill), nghĩa là các ngân hàng thành công ngày càng làm tốt hơn việc tiêu chuẩn hóa quy trình và hệ thống của họ. Người tiên phong là Santander, nhưng nỗ lực không mệt mỏi của ngân hàng này trong việc đồng nhất hóa mọi hệ thống ở mọi nơi đang được Citigroup, HSBC và Standard Chartered làm theo. Khi Citigroup tìm được mô hình thành công tại Singapore, nó nhanh chóng nhân rộng ra khắp châu Á và châu Mỹ.
Nhưng cũng không thể nói rằng quy mô địa phương không quan trọng. Theo quy tắc ngón tay cái, cả HSBC và Santander đều cho rằng để hoạt động hiệu quả họ cần chiếm được ít nhất 5-10% thị trường. Standard Chartered cung cấp danh mục đầy đủ các dịch vụ tại những thị trường ngân hàng này đã phát triển mạnh và danh mục hạn chế các dịch vụ tại những thị trường ngân hàng này chiếm thị phần nhỏ. “Ngay từ đầu, chúng tôi đã nhận ra rằng chúng tôi không thể tạo dựng một Standard Chartered toàn diện ở khắp mọi nơi, do vậy, chúng tôi tập trung vào cách chúng tôi cạnh tranh chứ không phải vào việc tạo ra một cỡ phù hợp cho tất cả”, Steve Bertamini, phụ trách ngân hàng tiêu dùng của Standard Chartered cho biết.
Bạn sẽ không bao giờ đi một mình
Lợi thế nhờ kỹ năng cũng có thể bao gồm các lợi thế “mềm hơn” như chia sẻ kiến thức trên mạng lưới. Jean-Laurent Bonnafé, giám đốc điều hành BNP Paribas, nói về chi nhánh tại Mỹ của ngân hàng này: “Những gì chúng tôi đạt được khi kết hợp với Bank of the West là cách thức chúng tôi điều hành ngân hàng. Đây là ngân hàng cỡ vừa tiếp cận được 100% bất kỳ điều gì hấp dẫn bên trong tập đoàn BNP Paribas”. Ví dụ, tại trung tâm San Francisco, mặt tiền một cửa hàng đang được tân trang lại phục vụ lĩnh vực quản lý tài sản của Bank of the West. Cơ ngơi này sử dụng bản thiết kế do công ty mẹ cung cấp nhưng hoàn toàn mới với thị trường nội địa.
Quốc tế hóa hoạt động ngân hàng bán lẻ đang mang lại cho người tiêu dùng nhiều lợi ích đáng kể. Tại các quốc gia thị trường ngân hàng không hiệu quả, sự xuất hiện của một ngân hàng quốc tế quy mô lớn thường có thể dẫn đến sự cạnh tranh giúp nâng cao chất lượng dịch vụ của toàn bộ các ngân hàng tại đất nước này. Việc này cũng cho phép một số ít, nhưng đang gia tăng, các khách hàng - những người đang học hoặc làm việc ở nước ngoài - gửi tiền vào một nơi tương tự như tổ chức họ đang sử dụng tại quê nhà. Việc này tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc mở tài khoản mới ở nước ngoài (một việc nghe có vẻ đơn giản cho đến khi bạn thử thực hiện) và chuyển tiền qua biên giới.
Tác động này sẽ sớm diễn ra không chỉ trong hoạt động ngân hàng bán lẻ mà còn trong thế giới bán buôn và ngân hàng đầu tư đầy tham vọng. Khi các ngân hàng bán lẻ mở rộng, chúng sẽ có thể đưa người bán đến gặp người mua, người cần vay tiền gặp người có tiền tiết kiệm, trên phạm vi quốc tế.
Một số luồng tiền khổng lồ - những khoản tiền trước thời khủng hoảng tài chính tăng mạnh thông qua thị trường vốn, mang lại những khoản bổng lộc béo bở cho các ông chủ ngân hàng đầu tư, những người bố trí việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu hoặc các khoản cho vay liên kết – hiện đang chảy qua mạng lưới nội bộ của các ngân hàng quốc tế. Các hãng như Morgan Stanley, Credit Suisse và UBS, trước kia từng cử nhân viên ngân hàng đến các thủ phủ tài chính của thế giới hoặc thực hiện các giao dịch tài chính tại thị trường vốn, sẽ giữ vị trí phụ thuộc đối với các ngân hàng bán lẻ toàn cầu, những ngân hàng có thể khai thác các khoản tiền tiết kiệm của khách hàng.
Chưa đến một thập niên trước, hầu hết các ngân hàng bán lẻ đều lo sợ internet. Sau đó, phần lớn số này quyết định lờ đi. Hiện điều rõ ràng hơn bao giờ hết là tương lai sẽ phụ thuộc vào những người đủ nhanh nhạy và có tầm nhìn đủ xa.
Nguồn Economist/Khampha