Ảnh: The Economist.
Hãng hàng không nào sẽ tăng sau đại dịch?
Theo The Economist, với việc phong tỏa và cấm đi lại, đại dịch đã cản trở các hãng hàng không trên thế giới. Doanh thu trên mỗi km hành khách, thước đo hiệu suất chung của ngành, đã giảm mạnh 66% vào năm 2020, so với năm 2019. Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA) dự kiến thước đo hiệu suất này sẽ vẫn thấp hơn 57% so với mức trước đại dịch trong năm nay.
Mặc dù, các hãng hàng không niêm yết trên thế giới nói chung vừa mới phục hồi từ hoạt động thị trường chứng khoán gây ra. Các nhà dự báo cho rằng du lịch hàng không sẽ chỉ trở lại mức trước đại dịch vào năm 2024. Tổng thiệt hại hàng năm của các công ty có thể đạt 48 tỉ USD vào năm 2021, với mức cao nhất là 126 tỉ USD vào năm 2020.
Nhiều hãng hàng không đã tiêu tiền nhanh như việc máy bay của họ đốt cháy nhiên liệu. Còn nhiều hãng sống sót chỉ nhờ vào sự cứu trợ của chính phủ.
Tuy nhiên, bức tranh toàn ngành che giấu sự chênh lệch. Một số hãng hàng không đang gặp khó khăn mặc dù đã cắt giảm chi phí, cắt giảm đội bay và củng cố bảng cân đối kế toán bằng các khoản vay thương mại.
Ngược lại, những hãng khác tràn đầy tự tin. Các công ty lớn của Mỹ và Trung Quốc với thị trường nội địa rộng lớn, sẽ trở lại khả năng sinh lời trước. Các hãng hàng không giá rẻ tiết kiệm đã bỏ lại đại dịch phía sau. Trong khi đó, các hãng hàng không phụ thuộc vào các tuyến đường dài sinh lợi có thể gặp khó khăn khi nhiều khách doanh nhân thay thế các chuyến bay bằng cách họp qua Zoom.
Vận may phân hóa không có gì mới trong ngành kinh doanh hàng không. Hầu hết các hãng vận tải đều giảm lợi nhuận. Ảnh: IATA. |
Theo IATA, chỉ có khoảng 30 trong số 70 hãng hàng không có sẵn dữ liệu kiếm được nhiều hơn chi phí vốn của họ từ năm 2008 đến năm 2018. Để tiếp tục hoạt động, các hãng hàng không sẽ cần “bảng cân đối kế toán tốt hoặc một công ty mẹ có túi tiền sâu”, chuyên gia Rob Morris của công ty dữ liệu hàng không Cirium cho biết.
Trong thông báo về gói cứu trợ mới nhất của Nhật, các nhà chức trách đã nói về 240.000 việc làm đang bị đe dọa và nhấn mạnh vai trò của các hãng hàng không trong việc kết nối các vùng xa xôi của quốc gia quần đảo này.
IATA ước tính, từ khi bắt đầu đại dịch đến tháng 3 năm nay, các khoản phân phát công khai cho ngành hàng không đã vượt quá 225 tỉ USD trên toàn cầu.
Cũng như nhiều đối tác kém sinh lợi với các mạng lưới quốc tế lớn, bao gồm các hãng Air France-KLM, British Airways hay Lufthansa của Đức, tất cả đều “dựa vào việc toàn thế giới mở cửa trở lại”, ông John Grant của công ty dữ liệu hàng không OAG nhận xét. Điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi nhiều người trên toàn cầu được tiêm chủng.
Tỉ lệ tiêm chủng ở các khu vực. Ảnh: IATA. |
Giữa sự không chắc chắn, hai loại hãng bay có thể được kỳ vọng sẽ khởi sắc. Đầu tiên là hãng hàng không có mạng lưới dịch vụ đầy đủ, giống như các đối thủ cạnh tranh, cung cấp các đường bay dài và ngắn nhưng cũng quan trọng là phục vụ thị trường nội địa rộng lớn. Nhóm thứ hai bao gồm các hãng hàng không giá rẻ nhanh nhẹn và có khả năng sinh lời cao, bay trên nhiều tuyến đường trong khu vực.
Mỹ có thể sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm nay khi các hạn chế của COVID-19 kết thúc. Ảnh: AFP. |
Sự phục hồi của các chuyến bay nội địa ủng hộ các hãng hàng không Mỹ và Trung Quốc. Năm ngoái, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành thị trường nội địa lớn nhất thế giới về năng lực. Ngân hàng Citigroup cho biết, các chuyến bay nội địa ở Trung Quốc đã trở lại mức của năm 2019.
Nhà tư vấn Oliver Wyman ước tính, các chuyến bay nội địa chiếm 60% lượng du lịch hàng không của Mỹ, so với khoảng 10% ở châu Âu, Trung Đông và châu Phi. Mỹ vẫn thua Trung Quốc một chút nhưng du lịch bằng đường hàng không trong thời gian từ cuối tuần trước tới ngày 4.7 đã vượt qua mức trước đại dịch. Ngược lại, ở châu Âu, số lượng các chuyến bay đường ngắn vẫn giảm 55% so với mức trước đại dịch.
Có thể bạn quan tâm:
Hãng hàng không Emirates lần đầu báo lỗ hàng tỉ USD trong hơn 30 năm