Thứ Bảy | 14/12/2013 09:18

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hoà giữa Keynes và Friedman

Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng song song và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.
Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa, chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ dường như đang giảm xuống, trước những ràng buộc về mặt thể chế và cấu trúc. Và xu hướng trên ngày càng thể hiện rõ tại khu vực các quốc gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Trong thời điểm hiện tại, ngoại trừ Bắc Triều Tiên, chúng ta khó có thể tìm kiếm một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối liên hệ nào đối với tất cả các quốc gia. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất, để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại, hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở nên xa vời.

Đơn cử, chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga, tức là cần gắn kết với tất cả các phần còn lại, với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Mà tất cả đều đang đối mặt với thách thức mới, nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát.

Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy, tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0,7% trong tháng 10, tức là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Nguy hiểm hơn, tình trạng giảm lạm phát gần như không thay đổi ngay cả khi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0,5% kể từ đầu tháng 5. Có nghĩa công cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết, lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tế thì ngược lại, tỷ lệ lạm phát vẫn "miệt mài" hướng xuống mốc 0%.

Trong những bế tắc nhất thời, ECB tiếp tục hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất cơ bản vào ngày 7/11 vừa qua. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần.

Friedman
Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát.
Trực thăng chở đầy tiền

Ngược dòng lịch sử có thể thấy, liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một máy bay chở đầy tiền.

Dĩ nhiên, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Vì vậy, ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Nhưng nếu thế, phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát".

Trên thực tế, xu hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới, nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản,...) đã hành động như vậy để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng.

Dẫn đầu xu hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper). Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn, nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự phục hồi vững chắc trong tăng trưởng. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có hấp thụ hết lượng tiền đó hay không. Các công cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,... Điều còn tồi tệ hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.

Bẫy thanh khoản

Khác với trướng phái trọng tiền của Friedman, nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo trường phái trọng cầu.

Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933, học thuyết của Keynes đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Tuy nhiên, tư tưởng ban đầu của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản.

Tư tưởng của Keynes
Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu, khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn.

Theo Keynes, cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Tuy nhiên, Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức, nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".

Lý thuyết là vậy, nhưng châu Âu hiện tại đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Một mặt, gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia đến khu vực trung tâm của Eurozone mà Pháp là một ví dụ tiêu biểu.

Mặt khác, về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản, cầu tiêu dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp, khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào ngân hàng, cũng không muốn chi tiêu vì biết chắc món hàng mua hôm nay sẽ giảm giá vào ngày mai. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong tài khoản ngân hàng. Tiền dùng để cất giữ thay vì chi tiêu. Hiện tượng này là một biểu hiện của sự dư thừa thanh khoản. Kết hợp cùng yếu tố cầu tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sản xuất (như cổ phiếu, bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sản xuất.

Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sản xuất bị triệt tiêu đáng kể cùng với cầu tiêu dùng thấp. Nói đơn giản, sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn.

Keynes đề xuất cần phải kích cầu tiêu dùng, qua đó làm tăng sản xuất tương ứng. Để giải quyết khó khăn trong thời kì giảm phát và đình đốn, Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích cầu tiêu dùng, ưu đãi khu vực sản xuất.

Có thể thấy, giải pháp này của Keneys bổ sung cho khuyết điểm trong tư tưởng của Friedman, khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Hơn nữa nếu được thực hiện thành công, tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman, bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại chủ yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền.

Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng, kinh tế Nhật Bản sở dĩ trải qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và chần chừ nâng lãi suất, để rồi đi tới thực hiện chính sách lãi suất 0%. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm, và kinh tế Nhật Bản cũng trì trệ kéo dài cả thập kỉ.

Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman, Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên.

Tuy nhiên, giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Một mặt, ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU), một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho thắt lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.

Mặt khác, trong một nền kinh tế mở, tất cả biện pháp kích cầu tiêu dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại. Trừ những quốc gia sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức, thì nguy cơ trên trở nên nguy hiểm hơn đối với các quốc gia thâm hụt thương mại lớn như Hà Lan.

Chiến lược chung cho tất cả

Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư công cụ sản xuất. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến mục tiêu này, bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp, nhằm nâng cao năng suất.

Tuy nhiên, hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Trong khoảng thời gian đầu tiên, chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Do vậy, đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia, vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng tiền chung châu Âu.

Đầu tiên, mỗi quốc gia thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực, mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Keynes cho rằng, các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu áp lực. Những luật lệ mới đây tại châu Âu, chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong tương lai có thể bắt buộc các quốc gia không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP.

Song song với việc tái cân bằng chính sách quốc gia, một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Những quốc gia eurozone phải chấp nhận một quy tắc cân bằng ngân sách, để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sản xuất trong các nước thành viên.

Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất định và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.

Điều quan trọng là phải phù hợp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị, hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Như vậy thì kế hoạch nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman, điều Eurozone cần còn là một quyết tâm chính trị dựa trên sự thống nhất giữa 17 chính phủ.

Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman, dường như không có vùng trời chung. Tuy nhiên, hình thành theo thời gian người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thoả hiệp nhất định giữa hai trường phái, hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường song song cuối cùng cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Vì vậy, các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn sao, giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ duy nhất trên thế giới.

Tâm Vũ - Gafin