Thứ Hai | 26/01/2015 13:31

Đông Á: 200 triệu người đã di chuyển về các đô thị giai đoạn 2000 - 2010

Dân số đô thị Đông Á tăng nhanh, với mức tăng bình quân hàng năm là 3,0%, đạt 778 triệu trong năm 2010, lớn nhất thế giới.

Gần 200 triệu người đã di chuyển đến các khu vực đô thị tại khu vực Đông Á trong giai đoạn 2000 - 2010, tương đương với số dân của một nước lớn thứ sáu trên thế giới, theo báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới (WB).

Theo báo "Thay đổi Cảnh quan Đô thị Đông Á: Đánh giá một thập kỷ Phát triển không gian", nhìn chung thì đô thị ở Đông Á tăng với tốc độ trung bình 2,4%/năm trong thời gian nghiên cứu, với tổng diện tích đô thị năm 2010 là 134.800 km2 vào năm 2010.

Dân số đô thị tăng nhanh hơn với mức tăng bình quân hàng năm là 3,0%, đạt 778 triệu trong năm 2010 – con số lớn nhất so với bất cứ khu vực nào khác trên thế giới. Phải mất hơn 50 năm châu Âu mới đô thị hoá được số dân như vậy.

Báo cáo cũng cho thấy mối  liên hệ trực tiếp giữa đô thị hóa và tăng trưởng thu nhập, và mối liên hệ giữa năng suất lao động cao hơn cùng với tỉ lệ dân số đô thị tăng lên.

Báo cáo cho biết trong vùng Đông Á có 869 khu vực đô thị có trên 100.000 dân. Trong đó, 8 thành phố lớn với hơn 10 triệu người, bao gồm đồng bằng Châu thổ Châu Giang, Thượng Hải và Bắc Kinh của Trung Quốc; Tokyo và Osaka của Nhật Bản; Jakarta, Seoul và Manila. Đồng bằng Châu thổ Châu Giang của Trung Quốc đã vượt qua Tokyo và trở thành đô thị lớn nhất thế giới cả về quy mô và dân số.
 
Đồng thời, báo cáo cho thấy con số các đô thị nhỏ hơn cũng tăng đáng kể. Có 572 khu đô thị nhỏ nhất - với dân số từ 100.000 đến 500.000 người - và 106 khu đô thị vừa với dân số từ 1.000.000 - 5.000.000 người có diện tích đất lớn hơn so với 8 siêu thành phố kể trên.

Một đặc điểm đáng chú ý trong mở rộng đô thị này là các khu đô thị đang có mật độ dân ngày càng tăng, mà, nếu quản lý tốt, sẽ tốt hơn cho môi trường và cung cấp các dịch vụ cho người dân hiệu quả hơn. Tuy nhiên, tăng trưởng làm nảy sinh thách thức đáng kể do bị phân mảnh, trong đó gần 350 khu đô thị nằm trong nhiều khu vực hành chính của địa phương. Trong một số trường hợp, nhiều thành phố được sát nhập thành một thực thể duy nhất trong khi chúng tiếp tục được quản lý một cách riêng rẽ.

Các chính phủ và lãnh đạo đô thị đang vấp phải vấn đề sự thiếu dữ liệu so sánh quốc tế do các nước sử dụng các định nghĩa khác nhau về khu vực và dân số đô thị.

Ông Axel van Trotsenburg, Phó Chủ tịch WB khu vực Đông Á cho biết, "chúng tôi cung cấp dữ liệu này để lãnh đạo các đô thị có thể có được một bức tranh tốt hơn và hành động để đảm bảo rằng tăng trưởng đô thị mang lại lợi ích cho người dân đang di chuyển ngành càng nhiều đến các thành phố, đặc biệt là người nghèo".

“Một khi các thành phố được xây dựng, diện mạo đô thị và hình thức sử dụng đất sẽ bị cố định trong nhiều thế hệ," Marisela Montoliu Munoz, Giám đốc Thực hành Toàn cầu về Ứng phó, Đô thị, Nông thôn và Xã hội của Ngân hàng Thế giới cho biết. "Cần nâng cao chất lượng số liệu để hiểu rõ hơn các xu hướng mở rộng đô thị, giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định sáng suốt hơn nhằm hỗ trợ cộng đồng phát triển bền vững trong một môi trường thay đổi nhanh chóng, giúp họ tiếp cận với dịch vụ, việc làm và nhà ở”.

Tuy tăng trưởng đáng kể và nhanh chóng như vậy nhưng số liệu cho thấy rằng tổng diện tích đô thị hoá khu vực Đông Á chưa đến 1%, và dân số đô thị chỉ chiếm 36% - qua đó thấy rằng quá trình mở rộng đô thị tại khu vực mới chỉ bắt đầu.

Các con số về mở rộng đô thị khu vực Đông Á (2000 – 2010)

200 triệu: Dân cư đô thị mới ở Đông Á, tương đương với dân số của nước lớn thứ sáu trên thế giới.

42 triệu: Tổng dân số Đồng bằng Châu thổ Châu giang, khu vực đô thị lớn nhất thế giới, hơn cả Argentina, Australia, Canada và Malaysia

2,4%: Tốc độ tăng trưởng trung bình diện tích đất đô thị hàng năm.

1%: Tổng diện tích đất đô thị trong năm 2010

36%: Tổng dân số đô thị trong năm 2010, năm 2000 là 29%.

869: Tổng các khu đô thị có trên 100,000 người.

Nguồn DVO