Ảnh: Getty Image

 
Hân Nguyễn Thứ Năm | 13/01/2022 11:32

Châu Á sở hữu khối tài sản 28.000 tỉ USD

Khi các khoản tiết kiệm tư nhân ở Đông Á và Đông Nam Á tăng, các nhà tài chính khu vực “bẻ lái” sang các thị trường tài sản ở phương xa.

Các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đã luôn trứ danh với tài xoay chuyển dòng vốn toàn cầu. Sau những đợt thu mua trong hơn một thập kỷ qua, mười nền kinh tế lớn nhất trong khu vực hiện nắm giữ khối tài sản gần 28.000 USD, hơn gấp ba lần năm 2005 và tương đương với một phần năm tài sản toàn cầu. Các tổ chức lâu đời ít được biết đến ở phương Tây, như các ngân hàng Nhật Bản, các công ty bảo hiểm Đài Loan hay các quỹ hưu trí của Hàn Quốc, giờ đây đã lấn sân sang các thị trường tài sản khác nhau, từ khoản vay thế chấp (CLO) ở Mỹ đến các tuyến đường sắt cao tốc ở Anh.

Đông Á từ lâu đã được công nhận là một nước đóng góp vào tình trạng “thặng dư tiết kiệm” (saving glut) toàn cầu, một khái niệm được phổ biến bởi ông Ben Bernanke, thống đốc Cục Dự trữ Liên bang vào năm 2005. Khi khu vực này ngày càng giàu có, quy mô cổ phần nước ngoài của châu Á cũng tăng lên. The Economist đã xem xét các số liệu về tổng tài sản nước ngoài của mười nền kinh tế Đông Á và Đông Nam Á, họ định nghĩa đây là tổng tài sản nước ngoài không bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia. 

Tổng tài sản nước ngoài của mười quốc gia trên đã tăng từ khoảng 8000 tỉ USD năm 2005 lên gần 28 nghìn tỉ USD vào năm 2020, làm tăng thị phần của khu vực lên 5 điểm phần trăm.
Tổng tài sản nước ngoài của mười quốc gia trên đã tăng từ khoảng 8000 tỉ USD vào năm 2005 lên gần 28 nghìn tỉ USD vào năm 2020, làm tăng thị phần của khu vực lên 5 điểm phần trăm.

Cơ cấu quỹ tiết kiệm của châu Á cũng đã thay đổi, đặc biệt nổi bật ở một số nơi. Khi ông Bernanke tiến hành phân tích, dự trữ ngoại hối do các chính phủ và Ngân hàng trung ương nắm giữ trong nhóm mười nền kinh tế trung bình chiếm khoảng một nửa tài sản nước ngoài của một quốc gia. Số ngoại tệ này đã được dự trữ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 như một bức tường thành chống lại sự sụp đổ tiền tệ trong tương lai. Tỷ lệ dự trữ trung bình hiện đã giảm xuống gần một phần ba. Trong khi đó, 2/3 kho dự trữ cho thấy sự bùng nổ trong hạng mục đầu tư và các dòng tài chính khác, khi các nhà đầu tư tổ chức trong khu vực săn lùng lợi tức.

Thay đổi này đang thu hút sự chú ý của các cơ quan giám sát tài chính. Vào tháng 12, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) kết luận rằng các nhà đầu tư tổ chức châu Á đã góp phần gây ra căng thẳng tài trợ bằng đồng USD vào tháng 3 năm 2020, khi covid-19 lan rộn lần đầu và thị trường hoảng loạn. Tuy nhiên, các mối liên kết tài chính và những rủi ro liên quan đến chúng vẫn còn nhiều điểm chưa được hiểu rõ.

The Economist chia các quốc gia thành ba nhóm. Nhóm giàu nhất - Hồng Kông, Nhật Bản và Singapore - nắm giữ dự trữ ngoại hối đáng kể, nhưng lượng dự trữ tài sản khác của họ chỉ lớn hơn từ năm đến tám lần. Cổ phiếu của họ hiện đã trưởng thành và tăng trưởng chậm hơn theo tiêu chuẩn khu vực.

Thay đổi lớn hơn đã diễn ra ở Hàn Quốc và Đài Loan. Năm 2005, gần một nửa tài sản nước ngoài của Đài Loan và 2/3 tài sản của Hàn Quốc là ngoại hối. Mặc dù lượng dự trữ kể từ đó của hai quốc gia đã tăng hơn gấp đôi, danh mục đầu tư và các tài sản khác đã mở rộng với tốc độ nhanh hơn rất nhiều. Hàn Quốc và Đài Loan hiện sở hữu lần lượt 1500 tỉ USD và 2100 tỉ USD tài sản nước ngoài, chưa đến một phần ba trong số đó là ngoại hối. Ở Malaysia cũng vậy, tài sản không dự trữ ngoại hối hiện nay đã cao hơn hai lần. Ngược lại, đối với nhóm quốc gia thứ ba, bao gồm Trung Quốc, Indonesia, Philippines và Thái Lan, dự trữ ngoại hối vẫn chiếm tỷ trọng lớn.

Nắm giữ tài chính nước ngoài tăng trưởng đi đôi với việc biến các nhà đầu tư tổ chức bảo thủ thành những người chơi lớn ở các “góc khuất” của thị trường tài chính. Một ví dụ điển hình là Ngân hàng Norinchukin, một hợp tác xã nông nghiệp có trụ sở tại Nhật Bản. Ngân hàng này hiện nắm giữ khoảng 4800 tỉ yên (42 tỉ USD) trong CLO, loại chứng khoán được tạo thành từ một danh mục các khoản cho vay, hầu hết được định giá bằng USD. Trước khi cắt giảm thu mua vào năm 2019, họ được xem là người mua CLO lớn nhất ở Mỹ.

Các công ty bảo hiểm của Đài Loan, chẳng hạn như Bảo hiểm Nhân thọ Cathay và Bảo hiểm Nhân thọ Fubon, đã trở thành những tổ chức có ảnh hưởng trên một số thị trường quốc tế. Tổng tài sản của họ đã tăng gần gấp ba trong thập kỷ qua và nhiều trong số đó nằm ở nước ngoài. Đến cuối năm 2020, tài sản của họ bao gồm các khoản đầu tư nước ngoài đã tăng từ 30% (2010) lên 60%.

Dịch vụ Hưu trí Quốc gia của Hàn Quốc cũng đã tìm cách “chen chân” ở nước ngoài, thông báo một loạt các dự án toàn cầu. Tài sản nước ngoài chiếm 37% quỹ hưu trí vào năm ngoái, gần gấp đôi tỷ trọng vào năm 2013 và công ty đặt mục tiêu tăng con số đó lên 50% vào năm 2024 với chiến lược theo đuổi lợi nhuận không chỉ ở nước ngoài mà còn ở các loại tài sản kém thanh khoản hơn, trước khi các khoản chi trả lợi ích của quỹ bắt đầu tăng vào đầu những năm 2040 và thặng dư doanh thu của quỹ chuyển sang thâm hụt.

 

Quỹ Bảo trợ Người lao động của Malaysia (EPF) đã cung cấp một minh họa khác về khả năng tiếp cận nước ngoài của các tổ chức châu Á. Năm ngoái, EPF đã ra mắt quỹ đầu tư tư nhân sharia lớn nhất thế giới, cùng với BlackRock, HarbourVest Partners và Partners Group, mỗi bên quản lý một phần ba trong số 600 triệu USD được phân bổ. Tài sản nước ngoài của EPF cũng đã tăng từ 29% tổng tài sản vào giữa năm 2017 lên 37% vào giữa năm 2021.

Kết quả của tất cả các hoạt động này là các nhà đầu tư tổ chức châu Á đã trở thành những người mua khổng lồ trên một số thị trường nhất định, đặc biệt là ở Úc. 

Úc là nơi có tài sản lớn thứ ba đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản và có xu hướng chiếm khoảng 10-15% danh mục đầu tư của họ. Các giao dịch mua tài sản bằng đô la Úc ở Bắc Á đủ lớn để thay đổi cơ sở hoán đổi tiền tệ chéo của đất nước.

Đối với các nhà quan sát như BIS và IMF, dạng tài sản ngoại hối có tính thanh khoản cao vẫn ít rủi ro hơn. Các số liệu chính xác, mạch lạc về cơ cấu, mức độ rủi ro và tính thanh khoản của các cổ phiếu nắm giữ vẫn khó có thể nắm giữ, do đó rất khó để đánh giá bức tranh tổng thể.

Nguồn The Economist