Các nền kinh tế mới nổi “mua nhầm” bảo hiểm
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm cuối 1990, các nền kinh tế mới nổi bắt đầu tích trữ dự trữ ngoại hối nhằm bảo vệ mình khỏi các rủi ro về nợ nước ngoài quá nhiều. Tuy nhiên, thực tế là kho dự trữ ngoại hối của các nước này đã đạt mức kỷ lục 6,5 nghìn tỷ USD (theo số liệu mới nhất) và làm cho các quốc gia này được bảo vệ “quá nghiêm ngặt” khỏi các cú sốc do mất cân đối cán cân thanh toán với nước ngoài.
Tuy nhiên các quốc gia này vẫn chưa được bảo vệ đúng mức với các rủi ro tín dụng trong nước – mối đe dọa hàng đầu đối với các nền kinh tế mới nổi vào thời điểm này.
Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008, lãi suất giảm mạnh, góp phần làm bùng nổ cho vay đối với khu vực tư nhân tại các nền kinh tế mới nổi lớn nhất như Brazil, Ấn Độ, Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ.
Mặc dù các đợt bùng nổ tín dụng này trước tiên được tài trợ bởi các dòng vốn trong nước, chẳng mấy chốc mà các quốc gia nói trên lệ thuộc vào vốn nước ngoài do ngân hàng trung ương (NHTW) của các nền kinh tế đã phát triển đổ lượng lớn tiền vào các thị trường tài chính. Trong bối cảnh Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cân nhắc khả năng chấm dứt áp dụng các chính sách tiền tệ phi truyền thống, tài khoản vãng lai của các nền kinh tế mới nổi trở nên suy yếu và làm cho họ lệ thuộc nhiều hơn vào các dòng vốn chảy vào và điều này ngày càng trở nên nguy hiểm.
Tuy nhiên hiện nay xu thế đã đảo ngược với việc các dòng vốn chảy vào chỉ chiếm một lượng rất nhỏ so với các dòng vốn chảy ra. Trong bối cảnh đó, hệ quả tất yếu của việc thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế phát triển sẽ là đợt sụt giảm kéo dài của đồng nội tệ các quốc gia mới nổi. Điều này sẽ dân đến lãi suất tăng mạnh – xu thế sẽ khiến cho các nền kinh tế mới nổi rơi vào rủi ro khủng hoảng tín dụng vốn là nỗi ám ảnh với các nền kinh tế phát triển 6 năm vừa qua.
Lãi suất càng cao để ổn định đồng nội tệ của các nền kinh tế mới nổi thì cuộc khủng hoảng càng nghiêm trọng. Cuối cùng, nếu như các nền kinh tế mới nổi cố gắng đa dạng hóa các nguồn vốn của mình khỏi các đồng ngoại tệ thì các quốc gia này vẫn sẽ là “con tin” của chu kỳ chính sách tiền tệ của Mỹ.
Giá mà các nền kinh tế mới nổi này cố gắng cưỡng lại sự hấp dẫn của việc tăng trưởng tín dụng cho khu vực tư nhân quá ồ ạt thì việc tăng lãi suất nhằm ổn định đồng tiền sẽ không gây ra rủi ro quá lớn như vậy cho nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thay vì làm như vậy, các quốc gia này lại bị ảo tưởng với khái niệm rằng tỷ lệ tăng trưởng GDP cao chưa từng có đang dần trở thành xu thế mới.
Không ở đâu mà quan niệm này rõ nét hơn Trung Quốc: với việc tăng trưởng sản lượng hàng năm đạt mức 2 con số đã che giấu các khiếm khuyết chết người của mô hình tăng trưởng lấy Nhà nước làm chủ đạo và dựa vào tăng trưởng tín dụng là chủ yếu, khuyến khích các donah nghiệp nhà nước và một số ngành được ưu tiên như bất động sản, thay vì ủng hộ khu vực tư nhân.
Kể từ năm 2008, tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc luôn là một trong những nơi hàng đầu thế giới – bỏ xa tăng trưởng GDP đồng thời khiến cho tổng nợ của Trung Quốc tăng từ 130% GDP lên đến 220% GDP. Tính đến năm nay, để có được 1 đồng tăng trưởng của GDP thì Trung Quốc cần phải tăng tín dụng 3,5 đồng. Khu vực tài chính của Trung Quốc đang cảm thấy sức ép của tăng trưởng tín dụng nóng – đã dẫn đến hệ quả trực tiếp là tình trạng thừa mứa ở các lĩnh vực được ưu tiên và các vấn đền liên quan đến nợ của các ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương ngày càng chất cao như núi.
Trong khi đó, hệ thống ngân hàng ngầm của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ chưa từng có. Tuy nhiên các rủi ro ngày càng gia tăng ở đây cũng bị “nhắm mắt làm ngơ” – do chủ yếu các tài sản thế chấp là bất động sản vốn được cho rằng sẽ giữ giá trị vĩnh viễn của nó và nhờ vào sự bảo lãnh ngầm của Chính phủ với các khoản vay cho các doanh nghiệp nhà nước cũng như chính quyền địa phương.
Ít nhất là tác động kết hợp của lãi suất cao trong khu vực ngân hàng ngầm cũng như tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa thấp hơn sẽ làm suy yếu khả năng trả nợ của người đi vay. Trong tình huống xấu nhất, giá bất động sản giảm hoặc niềm tin giảm sút vào các bảo lãnh ngầm của chính phủ sẽ làm cho các rủi ro thêm nghiêm trọng và làm suy yếu sự ổn định tài chính của Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, mặc dù Trung Quốc có kho dự trữ ngoại hối lên đến 3,5 nghìn tỷ USD, điều này chỉ là minh họa rõ nét hơn cho bối cảnh chung hiện nay của các nền kinh tế mới nổi – xu thế được bảo vệ quá mức khỏi rủi ro bên ngoài – trong khi các mối đe dọa thực sự lại đến từ bên trong. Điểm khác biệt giữa Trung Quốc và các quốc gia này là từ lâu nay Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách dựa cơ cấu và có tác dụng lâu dài – dựa trên tín dụng trong khi các nền kinh tế mới nổi khác đang bị cuốn vào vòng xoáy cho vay.
Tuy nhiên, sự chậm chạp của Trung Quốc trong việc thay đổi mô hình tăng trưởng hiện nay là dựa trên đầu tư và nợ được sử dụng trong suốt 2 thập kỷ vừa qua đồng nghĩa với việc các rủi ro tín dụng nội địa của nước này là mối đe dọa lớn nhất đối với nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Trong khi Trung Quốc có thể có đủ khả năng để chi trả các khoản nợ, nước này vẫn có nguy cơ bị mắc kẹt với một nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, tỷ lệ nợ cao và tăng trưởng danh nghĩa thấp hơn gần 2/3 so với tỷ lệ trung bình 17% của thời kỳ 2004-2011. Đây là tin rất xấu với các nền kinh tế mới nổi khác – vốn phụ thuộc vào tăng trưởng của Trung Quốc để tồn tại.
Trừ phi chính phủ các nền kinh tế mới nổi tận dụng lợi thế (hữu hạn) của kho dự trữ ngoại hối và đồng nội tệ được thả nổi của mình và tiến hành các cải cách cơ cấu mang tính sống còn, việc giảm lãi suất chỉ là khởi đầu của thảm họa và sẽ làm nghiêm tọng hơn các tác động của tăng trưởng đang chậm lại và rủi ro đi kèm nợ xấu. Liệu vấn đề này có trở thành rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu hay không - điều đó phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc.