Thúc đẩy sản xuất nội địa đang trở thành cơn sốt toàn cầu, nhưng đây có thể là chiến lược sai lầm và phản tác dụng. Ảnh: The Economist.

 
Chủ Nhật | 22/06/2025 07:30

Ảo tưởng tái công nghiệp hóa

Nhiều quốc gia đổ tiền vào hồi sinh ngành sản xuất, nhưng chính sách này có thể phản tác dụng, làm suy giảm năng suất và tụt hậu so với Trung Quốc.

Trên khắp thế giới, các chính trị gia đang dành nhiều sự quan tâm cho lĩnh vực sản xuất. Từ việc Tổng thống Mỹ Donald Trump muốn đưa mọi thứ từ sản xuất thép đến dược phẩm trở lại Mỹ bằng hàng rào thuế quan, đến việc Anh trợ cấp hóa đơn năng lượng cho các nhà máy, hay Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tung ưu đãi để thu hút các hãng xe điện. Các chính phủ từ Đức đến Indonesia cũng đang tích cực hỗ trợ ngành sản xuất chip và pin.

Tuy nhiên, làn sóng “tái công nghiệp hóa” này có nguy cơ thất bại, không chỉ vì thiếu hiệu quả, mà còn bởi nó có thể gây tác động tiêu cực nhiều hơn tích cực.

Tham vọng thúc đẩy sản xuất trong nước bắt nguồn từ nhiều mục tiêu. Với các quốc gia phát triển là kỳ vọng phục hồi việc làm lương cao và vực dậy những “vùng công nghiệp vàng son” đã tàn lụi, trong khi với các nền kinh tế đang phát triển là tạo thêm việc làm và thúc đẩy tăng trưởng. Chiến sự tại Ukraine càng làm nổi bật tầm quan trọng của chuỗi cung ứng bền vững, đặc biệt là đối với vũ khí và đạn dược. Trung Quốc, với năng lực sản xuất vượt trội, vừa là nguồn cảm hứng vừa là mối lo lớn đối với phần còn lại của thế giới.

Tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực tự cường, đó đều là những mục tiêu chính đáng. Nhưng niềm tin rằng chỉ cần tăng sản xuất là có thể đạt được các mục tiêu ấy lại dựa trên nhiều ngộ nhận về bản chất của nền kinh tế hiện đại.

Ngộ nhận đầu tiên là niềm tin rằng sản xuất sẽ tạo ra việc làm ổn định cho lao động không bằng cấp, hoặc lực lượng lao động di cư ở các nước đang phát triển. Thực tế, sản xuất hiện đại đã được tự động hóa. Dù tổng sản lượng toàn cầu tăng 5% kể từ năm 2013, ngành sản xuất lại mất đi 20 triệu việc làm, tương đương 6%.

Hiện nay, phần lớn việc làm tốt trong lĩnh vực này thuộc về kỹ sư và kỹ thuật viên. Tại Mỹ, chưa đến 1/3 lao động sản xuất là lao động phổ thông. Ngay cả khi Mỹ hồi hương toàn bộ hoạt động sản xuất để cân bằng thâm hụt thương mại, thì số việc làm tạo thêm cũng chỉ chiếm khoảng 1% tổng lực lượng lao động. Hơn nữa, lương trong ngành sản xuất hiện không cao hơn đáng kể so với ngành xây dựng hay dịch vụ, do năng suất tăng chậm hơn.

Ngộ nhận thứ hai là cho rằng sản xuất là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế. Tại Ấn Độ, tỉ trọng sản xuất trong GDP vẫn thấp hơn mục tiêu 25% mà ông Modi đề ra, song kinh tế nước này vẫn tăng trưởng ấn tượng. Trong khi đó, Trung Quốc, dù đang đứng đầu ở nhiều lĩnh vực sản xuất như năng lượng tái tạo hay xe điện, lại gặp khó trong việc đạt các mục tiêu tăng trưởng.

Một lập luận khác cho rằng tái công nghiệp hóa là cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia trong bối cảnh xung đột địa chính trị. Đúng là có những phụ thuộc nguy hiểm, như việc Trung Quốc gần như độc quyền tinh luyện đất hiếm, một mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất ô tô toàn cầu. Trong một số trường hợp, đầu tư vào các ngành sản xuất chiến lược như đóng tàu hay vũ khí là điều cần thiết.

Tuy vậy, trong một nền kinh tế toàn cầu hóa và chuyên môn hóa sâu như hiện nay, việc trợ cấp tràn lan cho sản xuất khó có thể giúp quốc gia chuẩn bị tốt hơn cho chiến tranh. Làm tên lửa hành trình khác hẳn làm xe điện. Thực tế, xung đột ở Ukraine cho thấy rằng khi cần, nền kinh tế thời chiến có thể nhanh chóng chuyển mình và tăng sản lượng.

Cuối cùng là cho rằng Trung Quốc thành công nhờ mô hình nhà nước dẫn dắt, và từ đó, các quốc gia khác nên sao chép chính sách công nghiệp tương tự. Trên thực tế, Trung Quốc từng sản xuất vượt ngưỡng phù hợp với trình độ phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI. Nhưng thời kỳ đó đã qua.

Tỉ trọng lao động trong ngành sản xuất của Trung Quốc hiện ngang bằng Mỹ ở mức thu nhập tương đương, và thậm chí thấp hơn một số nền kinh tế phát triển khác. Thị phần 29% trong giá trị gia tăng sản xuất toàn cầu mà Trung Quốc nắm giữ chủ yếu phản ánh quy mô dân số và thị trường khổng lồ, hơn là do chính sách công nghiệp vượt trội.

Sau nhiều năm tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã xây dựng được thị trường nội địa đủ lớn để hỗ trợ ngành sản xuất và liên tục đổi mới, từ drone đến taxi bay. Tuy nhiên, dù xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc tăng 70% so với GDP toàn cầu từ năm 2006, tỉ trọng xuất khẩu trong GDP của chính Trung Quốc lại giảm một nửa, cho thấy nền sản xuất nước này ngày càng phục vụ thị trường nội địa.

Để đối trọng với sức mạnh sản xuất của Trung Quốc, thế giới không cần cắt đứt quan hệ, một hành động vừa tốn kém vừa không thực tế. Thay vào đó, cần xây dựng một khối kinh tế đủ lớn, gắn kết các đồng minh, duy trì môi trường thương mại mở và hạn chế rào cản.

Đại dịch COVID-19 đã chứng minh rằng sự đa dạng hóa mới tạo ra chuỗi cung ứng bền vững, chứ không phải “nội địa hóa” bằng mọi giá. Thế nhưng, các chính phủ hiện nay đang đi theo chiều hướng ngược lại.

Cơn sốt sản xuất đang cuốn thế giới vào vòng xoáy bảo hộ và tranh giành những việc làm đã không còn tồn tại. Hệ quả là năng suất trì trệ, lương giảm và động lực đổi mới bị bào mòn, trong khi Trung Quốc vẫn vững vàng ở thế thượng phong. Tái công nghiệp hóa, nếu không đúng hướng, không chỉ là sai lầm, mà còn là con dao tự làm tổn thương chính mình.

Có thể bạn quan tâm:

Sức mạnh công nghệ: Cuộc đua toàn cầu mới

Nguồn The Economist