Thứ Hai | 11/02/2013 20:36

70 năm nay, chẳng mô hình kinh tế nào đếm xỉa tới ngân hàng

Paul Samuelson và các môn đồ cho rằng hệ thống tài chính chỉ đơn giản kết nối người tiết kiệm và người vay, chứ không phải các công ty vị lợi nhuận.
Ngày nay tiếng tăm của kinh tế học vĩ mô dòng chính chẳng tốt đẹp gì, cả trong mắt công chúnglẫn giới nghiên cứu kinh tế ở các phân ngành khác. Không có gì bất ngờ, vì ngay cả những câu hỏi cơbản nhất của kinh tế vĩ mô mà cũng không đồng thuận nổi.

Cứ hỏi các nhà "khoa bảng" vì sao lần này phục hồi kinh tế hậu khủng hoảng tại Mỹ lại chậm thế,là bạn sẽ có hàng tá những câu trả lời đối nghịch nhau. Nhưng kinh tế vĩ mô bị coithường chủ yếu là vì trong giới còn chẳng buồn để ý đến khả năng xảy ra đợt suy thoái lớn nhất vàđau đớn nhất kể từ thời Đại suy thoái.

Hiện nay, vài nhóm kinh tế gia đang thử "tái tạo" ngành kinh tế vĩ mô, thường là nhờ kết hợp cáctư tưởng trước đây bị bỏ qua với các kỹ thuật toán học và vi tính mới.

Kinh tế vĩ mô có không ít thăng trầm. Một mô hình cứ tồn tại cho đến khi có "lỗi" và buộc ngườita nghĩ lại. Thế rồi giới hàn lầm lại chắp vá ra một mô hình mới cho đến khi thực tế lại phát hiệnra những "lỗi" tiếp theo.

Những người khổng lổ đãng trí

Sau thời Đại suy thoái, John Maynard Keynes đưa ra một ý tưởng đột phárằng các hành vi tư lợi có thể gây ra hậu quả không mong muốn nếu tất cả mọi người đều cố thực hiệnchúng cùng một lúc.

Irving Fisher giải thích rằng nợ nần nhiều khiến nền kinh tế dễ bị tổnthương trước vòng xoáy giảm phát và vỡ nợ.

70 năm nay, chẳng mô hình kinh tế nào đếm xỉa tới ngân hàng (1)
Paul A. Samuelson
Simon Kuznets không phát kiến ra lý thuyết nào mới nhưng ông đóng vaitrò then chốt trong việc tạo ra hệ thống tài khoản sản phẩm và thu nhập quốc gia.

Trước thời ông, giới hoạch định chính sách, nhà đầu tư và dân chúng hầu như không cách nào biếtđược nền kinh tế đang tăng trưởng hay suy thoái. Tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt từng phảidựa vào các chỉ báo như giá gang hay số toa tàu hàng, thay vì tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Cho đến cuối những năm 1940, Đại suy thoái hết mà Keynes cũng đã chết. PaulSamuelson là người định hình tư duy kinh tế trong những thập kỷ tiếp theo.

Ông này lấy một số ý tưởng trong cuốn "Lý thuyết chung về Việc làm, Lãi suất, và Tiền tệ" củaKeynes rồi diễn giải chúng bằng mô hình toán học. Đóng góp của Samuelson rất quan trọng nhưng đángtiếc ông lại bỏ quên mất nhiều thứ, đặc biệt là góc nhìn của Keynes về bản chất của hệ thống tàichính.

Với Samuelson và các môn đồ của ông, ngân hàng các trung gian tài chính khác chỉ là"mạch máu" nối người tiết kiệm và người đi vay của khu vực phi tài chính, thay vì các công ty vịlợi nhuận cho vay một cách cơ hội.

Dù ngay thời gian đó đã có một số người phê phán Samuelson, đáng chú ý có John Gurley và EdwardShaw, nhưng đến ngay trước khủng hoảng, phần lớn giới kinh tế vẫn tin hệ thống tài chính không quantrọng lắm.

Nhiều nhà kinh tế vĩ mô "vui vẻ" bỏ qua ngành tài chính vì họ chỉ nghiên cứu có mỗi nước Mỹ,quốc gia không có bất kỳ cuộc khủng hoảng đáng kể nào kể từ những năm 1930. Chính phủ đã cho ra đờihệ thống bảo hiểm tiền gửi và từ bỏ hệ thống bản vị vàng, nên nhiều nhà kinh tế kết luận sẽ khôngthể có khủng hoảng ở các nước giàu.

Hàng thập kỷ liền mọi bằng chứng đều ủng hộ giả thuyết này, dù những con mắt sắc sảo vẫn thậntrọng khi chứng kiến những gì xảy ra với khu vực Bắc Âu và Nhật Bản.

Vì thế mô hình kinh tế vĩ mô cho giai đoạn hậu thế chiến đã "lờ mất" hệ thống tài chính. Thế thìnó tính tới cái gì? Các mô hình "thực chứng" chuẩn tạm giả định những gì xảy ra trong quá khứ sẽtiếp diễn trong tương lai.

Tư duy ấy không phải không có lý. Ví dụ, thay đổi số người có việc làm tương quan tương đốichính xác với thay đổi tỷ lệ thất nghiệp. Hàng ngàn phương trình tuyến tính dựa trên những quan hệkiểu này được tổng hợp thành một hệ thống khổng lồ.

Trong vài thập kỷ liền, những mô hình ấy thực sự đã rất hữu dụng. Nổi tiếng nhất là khi giớikinh tế tiên đoán chính xác đề xuất giảm thuế của TT John Kennedy đầu những năm 1960 sẽ không tăngthâm hụt ngân sách vì nó sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn.

Nhưng đến thập kỷ 1970 thì mô hình ấy có vấn đề. Người ta nghĩ không có chuyện giá tăng nhanh màthất nghiệp vẫn cao, hay "đình lạm", thế mà nó vẫn hiện hữu ở tất cả các nước giàu.

Vấn đề là các mối liên hệ quan sát thấy trong quá khứ không còn giá trị nữa nếu giới hoạch địnhchính sách cố lợi dụng chúng.

Trong trường hợp này, giới hoạch định chính sách đã dựa quá nhiều vào Đường cong Phillips (theođó, tăng lương danh nghĩa nhanh hơn khiến số việc làm tăng, trong khi nếu lương tăng chậm tỷ lệthất nghiệp sẽ tăng).

Trước đó, Irving Fisher đã phát hiện thấy mối quan hệ tương tự giữa thay đổi mức lương danhnghĩa và thay đổi số việc làm ở Mỹ. Dù chính Phillips cũng không nghĩ mối liên hệ ông phát hiện là"quy luật bất biến" trong kinh tế học nhưng các nhà kinh tế khác như Paul Samuelson lại nghĩvậy.

Họ cho rằng các nhà hoạch định chính sách chỉ phải đối diện với một sự đánh đổi đơn giản giữathất nghiệp và lạm phát mà đường cong Phillips là đại diện. Giới chính trị có thể chọn bất kỳ điểmnào mà họ muốn trên đường cong này.

Nguồn CafeF


Sự kiện