Ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng, VinaCapital. Ảnh: PV.

 
Ông Michael Kokalari, CFA, VinaCapital Thứ Ba | 21/03/2023 09:18

Không có “rủi ro Ngân hàng Thung lũng Silicon” tại Việt Nam

VinaCapital cho rằng sự sụp đổ của SVB không ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán cũng như nền kinh tế Việt Nam.

Sự sụp đổ đột ngột của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) ở Mỹ  cùng với những lo ngại về khả năng lây lan sang các ngân hàng châu Âu làm một số nhà đầu tư đặt câu hỏi về mức độ ảnh hưởng của sự sụp đổ này đối với Việt Nam - và liệu các ngân hàng ở Việt Nam có chịu rủi ro tiềm ẩn nào tương tự với những rủi ro của SVB hay không. VinaCapital cho rằng sự sụp đổ của SVB không ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán cũng như nền kinh tế Việt Nam. “Chúng tôi cũng nhận thấy những sự việc đã tác động đến SVB và một số ngân hàng khu vực khác của Mỹ sẽ không tạo ra rủi ro đáng kể đến khả năng sinh lời và/hoặc khả năng thanh toán của các ngân hàng tại Việt Nam”, Ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital nhận định. 

Nhiều thông tin cho rằng các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của SVB cùng với tiền gửi tại ngân hàng giảm đáng kể là những yếu tố chính dẫn đến tình trạng SVB nhanh chóng mất khả năng thanh toán. Các ngân hàng Việt Nam cũng nắm giữ trái phiếu Chính phủ trên bảng cân đối kế toán (ngân hàng ở hầu hết các nước cũng vậy nhưng lưu ý rằng ở Việt Nam không có chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp) và giá Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (TPCP) kỳ hạn 10 năm đã giảm khoảng 15% kể từ giữa năm 2021 khi lợi suất tăng, mặc dù lợi suất đã đạt đỉnh trong biểu đồ dưới đây. 

Nguồn: VinaCapital.
Nguồn: VinaCapital.

Tuy nhiên, TPCP chỉ chiếm khoảng 6% tổng tài sản  của các ngân hàng niêm yết và trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn (HTM) chiếm chưa đến 2% tổng tài sản. Con số này thấp hơn nhiều so với mức 5-10% điển hình của các ngân hàng Mỹ và thấp hơn nhiều so với mức ~45% tài sản của SVB nằm ở trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn trên bảng cân đối kế toán (khiến SVB trở nên cực kỳ khác biệt so với các ngân hàng khu vực khác của Mỹ).

Nói cách khác, trái phiếu Chính phủ Việt Nam tăng lợi suất có thể đã tạo ra khoản lỗ hơn 3 tỷ USD cho các ngân hàng niêm yết của Việt Nam , tương đương với hơn 5% tổng vốn chủ sở hữu cấp I của các ngân hàng này, đồng thời không có ngân hàng nào có tiềm ẩn một khoản lỗ lớn so với vốn chủ sở hữu của mình. Ngoài ra, mặc dù SVB được báo cáo có khoản lỗ tiềm ẩn khoảng 15 tỷ USD trong danh mục đầu tư (hơn nhiều so với 12 tỷ USD vốn chủ sở hữu), lý do chính khiến SVB sụp đổ là lượng tiền gửi giảm đáng kể, buộc ngân hàng này phải ghi nhận khoản lỗ trên danh mục đầu tư chứng khoán của mình. Tình huống này cũng khó xảy ra ở Việt Nam.

 

Cụ thể, lượng tiền gửi sụt giảm của SVB đã khiến ngân hàng này phải bán trái phiếu kho bạc và chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp để huy động tiền mặt trả cho người gửi tiền và điều này thể hiện thành các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư chứng khoán của họ. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam đảm bảo rằng tiền gửi luôn được bảo vệ trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng trước đây, mặc dù hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi chỉ là khoảng 5.000 USD. Do đó, người gửi tiền ở Việt Nam được khuyến nghị không rút tiền đột ngột khi một ngân hàng tại Việt Nam gặp khó khăn bởi Chính phủ sẽ đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng sụp đổ.

Sau tất cả những điều đề cập như trên, nguy cơ sụp đổ của một ngân hàng như SVB ở Việt Nam là rất thấp, bởi những sự việc tác động lên SVB không có khả  năng xảy ra (nghĩa là người gửi tiền không được khuyến khích rút tiền đột ngột từ ngân hàng khi có khủng hoảng) và các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của các ngân hàng Việt Nam không đủ lớn để tác động đáng kể đến khả năng sinh lời và/hoặc khả năng thanh toán. 

Có thể bạn quan tâm 

Thông điệp tích cực nhất khi Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất