Bìa quyển sách. Ảnh: Thu Phương

 
Minh Anh Thứ Sáu | 11/11/2022 13:23

Tiếng Núi - Những suy tư của buổi xế chiều

Tác phẩm được đánh giá đỉnh cao của văn học Nhật sau Thế chiến thứ hai.

Kawabata Yasunari (1899 - 1972) là một trong số tác gia nổi tiếng và có sức ảnh hưởng của văn học Nhật Bản thế kỷ XX. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1968, trở thành nhà văn Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ 3 nhận được giải thưởng cao quý này (sau Tagore - tác gia người Ấn Độ, 1913 và Shmuel Yosef Agnon - tác giả người Irasel, 1966)

Sự nghiệp văn chương của Kawabata bắt đầu từ rất sớm, khi ông còn là học sinh trung học. Ở giai đoạn đầu, ông chủ yếu thể hiện năng khiếu trong lĩnh vực thơ ca và truyện ngắn. Sau Thế chiến thứ hai, sự nghiệp sáng tác của ông nở rộ. Ông liên tục gặt hái nhiều thành công với thể loại tiểu thuyết. Tiếng Núi, Người Đẹp Say Ngủ, Đẹp và Buồn là những tiểu thuyết ông sáng tác trong giai đoạn này.

Có tuổi thơ cơ cực và cô đơn, 3 tuổi mồ côi cha; 4 tuổi mồ côi mẹ; tiếp đó bà nội và cô em gái độc nhất qua đời, ông sống với người ông mù lòa. Năm 1914, ông nội cũng mất, nhà văn chỉ còn một mình trên cõi đời. Các tác phẩm của Kawabata do vậy thường tràn ngập u buồn và suy tư hiện sinh với những trang viết mang vẻ đẹp mong manh, vừa thực vừa hư…

Xoay quanh những ẩn ức của một người đàn ông tới tuổi xế chiều về sự sống - cái chết, những nuối tiếc muộn màng trước cuộc đời, Kawabata đã dùng những mỹ cảm tinh tế để vẽ nên một bức tranh gia đình đậm chất Nhật trong Tiếng Núi (hay Tiếng Rền Của Núi - bản dịch của Ngô Quý Quang). Cuốn tiểu thuyết được đăng dài kỳ trên tạp chí đến năm 1954 thì hoàn thành. 5 năm viết cuốn tiểu thuyết ấy có lẽ Kawabata bắt đầu cảm nhận tuổi già sắp đến, đồng thời nhìn vào những bi kịch con người phải đối diện khi bước qua ngưỡng xế chiều. Cuốn sách nhanh chóng nhận được nhiều giải thưởng quan trọng, trong đó phải kể đến Giải thưởng văn học Noma vào năm 1954, Giải thưởng Sách Mỹ hạng mục Văn học dịch năm 1970.

Nhà văn Kawabata Yasunari lúc sinh thời.
Nhà văn Kawabata Yasunari lúc sinh thời.

Sự sụp đổ của trật tự gia đình

Văn hóa của người Nhật là chủ đề luôn được Kawabata khai thác rất sâu, từ trà đạo, cắm hoa hay thưởng tuyết. Trong quyển sách này, người đọc có thể cảm nhận rõ nét ở một bối cảnh đặc biệt hơn: khi trụ cột gia đình dần lãng quên, lớp trẻ trưởng thành và mang đầy những ưu phiền của cuộc đời. 

Shingo Otogo, một doanh nhân, 62 tuổi dù vẫn còn khỏe mạnh nhưng chống chếnh trước chứng sa sút trí tuệ. Chứng bệnh đãng trí len lỏi vào cuộc sống thường nhật, trùm lên đời sống của ông một màu ảm đạm. Tin tức về tang ma báo tới ông hình như nhiều hơn trước. Không chỉ ban ngày, trong cơn mơ, những người đã mất cũng hiện về trò chuyện với Shingo, khiến ông tự hỏi đó có phải là dấu hiệu cho thấy cái chết đang đến gần.

“Tiếng núi” là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất với Shingo. Trong những đêm khó ngủ, Shingo bên cạnh người vợ đã say ngủ từ lâu, ghe thấy “tiếng núi”. Một tiếng động “như thể sương đêm đang rơi từ phiến lá này xuống phiến lá khác”, “giống như tiếng gió ở xa, nhưng lại mang một sức mạnh ngầm, sâu thẳm tựa như tiếng đất rền”. Tiếng động ấy bao bọc lấy Shingo bằng nỗi sợ khi ông nghĩ rằng nó đang mách cho ông về ngày tận số. 

Shingo lần lượt xem xét lại mọi mối quan hệ của ông với các thành viên khác trong gia đình và suy sụp vì những điều ông nhận ra: cuộc hôn nhân kéo dài hơn 30 năm luôn làm ông hối hận, đoạn tình cảm với người chị dâu đã mất bỗng trỗi dậy, sự xa cách và thiếu cảm thông với con gái ruột và nỗi tự trách bản thân trước bất hạnh của người con dâu khi ông biết con trai ngoại tình.

Hoài niệm về quá vãng, thay vì ôm ấp mộng tưởng hay tiếp tục kết án bản thân, Shingo dần học cách chấp nhận gia đình, cuối cùng là chấp nhận bản thân. Nhưng thế giới quanh ông, được tuần tự hé lộ theo thời gian của tiểu thuyết, đang sụp đổ, bởi những đổi thay của hoàn cảnh và bởi những mâu thuẫn ngấm ngầm bị che giấu. Cái trật tự đó, dù muốn dù không, cũng bị phá vỡ hay chính là nỗi tiếc thương, u sầu của Kawabata?

Cái đẹp: Cứu rỗi hay chấp niệm?

Kawabata khởi thảo cuốn sách vào năm 1949, 4 năm sau khi Chiến tranh thế giới kết thúc với sự thảm bại của Nhật, để lại cho người Nhật nỗi cay đắng và sự sụp đổ của nhiều giá trị. Chiến tranh không được đề cập trực tiếp trong quyển sách này nhưng những dấu vết của nó, cái bóng nó hắt xuống đời sống thời bình rõ rệt và ám ảnh.

Chiến tranh chạm đến Shingo cận kề nhất qua hình ảnh người con trai Shuichi từng đi lính. Những chấn thương tinh thần của nhân vật được hé lộ rải rác và rất khéo trong sách. Chiến tranh khiến Shuichi thực tế hơn nhưng cũng nghiệt ngã hơn.

Sự tự hủy hoại của Shuichi và con rể Aihara phản chiếu trung thực nỗi u uất trong tâm hồn người Nhật sau Thế chiến thứ hai như lời Shuichi nói với cha: “Biết đâu đã có một cuộc chiến mới đang đeo bám chúng ta trong hiện tại. Và biết đâu cuộc chiến cũ trong chúng ta vẫn đang đeo bám chúng ta như những hồn ma.” 

Shingo còn một cuộc chiến đeo đẳng từ thời thanh niên: tình yêu thầm kín với người chị dâu xinh đẹp đoản mệnh. Người chị dâu phảng phất trong cuốn sách như một điểm mốc trong quá khứ là nguyên nhân cho mọi hành động trong đời Shingo, và trở thành nguyên nhân cho mọi khúc mắc của ông trong hiện tại.

Những giấc mơ của Shingo là sự chuyển hóa những khúc mắc trong đời thực của ông. Nhưng sâu xa hơn, cái cảm giác nhạt nhẽo ghê gớm chúng đem lại không gì khác ngoài sự thối rữa và băng hoại của cái đẹp mà Shingo nắm giữ quá lâu. Dục vọng đuổi theo cái đẹp ấy là một chấp niệm, và theo những cách lắt léo nhưng có thể cảm thấy, nó đã hủy hoại cuộc đời con cái ông.

Cuộc đời Shingo là hành trình không ngừng tìm kiếm hình bóng người chị dâu đã khuất qua người con dâu Kikuko. Với Shingo, cô là biểu tượng của sự thuần khiết, vẻ đẹp chưa từng bị vẩn đục, cái đẹp một đi không trở lại. Cái đẹp mà giữa đời sống trần tục, rất nhiều người luôn khát khao tìm kiếm. Chủ đề này được thể hiện rõ trong Người Đẹp Say Ngủ, Xứ Tuyết hay Ngàn Cánh Hạc - những tiểu thuyết khác của Kawabata.