Xuất khẩu gạo ngày càng cạnh tranh khốc liệt
Điều này cho thấy các nước xuất khẩu gạo có xu hướng tập trung và cạnh tranh khốc liệt hơn. Đó là nhận định được đưa ra tại Hội thảo Cấu trúc ngành lúa gạo do Liên minh Nông nghiệp tổ chức mới đây.
Theo TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách kinh tế (VEPR), trưởng nhóm nghiên cứu lúa gạo (Liên minh Nông nghiệp), qua số liệu khảo sát, phân tích cho thấy, mỗi quốc gia xuất khẩu gạo thường có những thị trường xuất khẩu chủ yếu của riêng mình và cạnh tranh trong những thị trường xuất khẩu khác.
Nếu như gạo Ấn Độ thường xuất khẩu sang Châu Phi (Nigeria, Senegal, Bờ Biển Ngà, Benin) và các nước Ả Rập, Hồi giáo (Saudi Arabia, U.A.E, Indonesia) thì Pakistan hướng mạnh đến thị trường Trung Đông, Bắc Âu, Bắc Mỹ và một số nước châu Á khác (Trung Quốc, Bangladesh).
Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia xuất khẩu gạo nhiều sang châu Á (Trung Quốc, ASEAN), Châu Phi (Nam Phi, Bờ Biển Ngà). Tuy nhiên, Thái Lan còn có khả năng thâm nhập được vào các thị trường gạo của các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Canada..., còn Việt Nam lại có thể xuất khẩu gạo sang các nước thuộc Liên minh châu ÂU (EU).
Hiện có khoảng 50 loại giá quốc tế cho các chủng loại gạo khác nhau. Giá gạo xuất khẩu được tham chiếu nhiều nhất là gạo Thái 5% tấm. Dù rằng trong ngắn hạn, các chủng loại gạo có thể có biến động giá khác nhau, nhưng người ta thấy giá có xu hướng biến động đồng hướng trong dài hạn.
Hiện gạo thơm có giá cao nhất. Đây là loại gạo phổ biến được xuất khẩu bởi Thái Lan với tên gọi là Thai Hommali và Ấn Độ với tên gọi Basmati. Tiếp theo là gạo trắng hạt dài chất lượng cao (chứa 5% tấm), rồi đến gạo trắng hạt dài chất lượng thấp (chứa 25% tấm), gạo đồ, và gạo tấm. Gạo thơm của Việt Nam vẫn chưa xây dựng được thương hiệu riêng.
Đại diện Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh, áp lực cạnh tranh trong XK gạo thời gian tới sẽ ngày càng khốc liệt, do xuất hiện những quốc gia mới nổi về xuất khẩu gạo.
Trong số các nước xuất khẩu truyền thống, Ấn Độ là nước có sự bứt phá mạnh mẽ nhất, với sản lượng xuất khẩu tăng gần 5 lần, từ mức trên 2,2 triệu tấn tấn trong niên vụ 2009/2010 lên 10 triệu tấn trong niên vụ 2013/2014, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Những năm gần đây, Ấn Độ đã mở rộng thị phần xuất khẩu gạo sang Nam Phi và có thể cạnh tranh ngang sức với Thái Lan ở thị trường này.
Ở châu Á, Campuchia, Myanmar đang có mức tăng trưởng mạnh về xuất khẩu gạo và cạnh tranh trực tiếp với các nước xuất khẩu gạo truyền thống. Campuchia đã tăng sản lượng xuất khẩu từ mức 750.000 tấn niên vụ 2009/2010 lên mức 1 triệu tấn trong niên vụ 2013/2014. Myanmar cũng tăng gần gấp đôi sản lượng xuất khẩu từ 700.000 tấn lên 1,3 triệu tấn trong giai đoạn này.
Trong khi đó, theo Tổ chức FAO, việc các quốc gia có truyền thống nhập khẩu gạo với số lượng lớn nay có xu hướng giảm, bằng việc đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước nên cũng khiến áp lực cạnh tranh về xuất khẩu gạo ngày càng gia tăng.
Chính sách này được thực hiện mạnh mẽ nhất ở Philippines và Malaysia. Philippines vốn là nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới năm 2010, với mức nhập khẩu 2,45 triệu tấn, sau đó đã giảm mạnh xuống 1,2 triệu tấn năm 2011 và tăng nhẹ lên 1,5 triệu tấn năm 2012. Indonesia là nước nhập khẩu gạo lớn nhất vào năm 2011, song đã không nhập khẩu gạo từ năm 2013. Xu hướng này cũng được nhận thấy rõ ở các nước châu Phi...
Trước thực tế trên, các chuyên gia thuộc Liên minh Nông nghiệp cho rằng, với cấu trúc đặc thù của thị trường lúa gạo Việt Nam, cần làm rõ chính sách lúa gạo Việt Nam hiện nay có đang bị thao túng bởi một số nhỏ các DN xuất khẩu hay không? Tổ chức Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) có thực sự đại diện cho lợi ích của ngành lúa gạo Việt Nam hay chưa?
Hơn nữa, tư tưởng coi việc xuất khẩu gạo với số lượng lớn như một thành tích vẫn đang ngự trị. Trong khi đó, đã đến lúc cần xem xét lại tổng thể vai trò của việc xuất khẩu gạo trong nền ngoại thương Việt Nam cũng như một động lực tăng trưởng.
Sản phẩm gạo Việt Nam được trợ cấp trong một số khâu đầu vào thiết yếu (thủy lợi, hạ tầng…) nên vấn đề cần đặt ra đối với gạo xuất khẩu là có nên tiếp tục duy trì tình trạng trợ cấp cho người tiêu dùng nước ngoài hay không? Nếu cần có chiến lược điều chỉnh giảm trợ cấp cho người tiêu dùng nước ngoài đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam thì vấn đề nên được bắt đầu từ đâu? Người nông dân có vai trò, lợi ích, thiệt hại gì trong quá trình này?
Theo Nông nghiệp Việt Nam