VnEconomy
WB: Áp lực trả nợ của Việt Nam sẽ lớn trong 3 năm tới
Báo cáo đánh giá về chi tiêu công Việt Nam do Chính phủ Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện cho thấy, tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam tăng nhanh, do chính sách tài khoá nới lỏng trong những năm qua.
Nợ công so với GDP tăng đáng kể từ 51,7% năm 2010 lên 61% năm 2015, trong đó nợ Chính phủ chiếm 49,2%, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9% và nợ chính quyền địa phương khoảng 0,9%.
Không tính nợ bảo lãnh và vay nợ trong nội bộ, nợ trực tiếp của Chính phủ được ước tính ở 43,3% GDP (năm 2015) gần sát với mức bình quân của các quốc gia trong khu vực và tương đương về thu nhập.
Áp lực trả nợ lớn
Báo cáo của WB nhấn mạnh Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng khoảng 10% trong 5 năm qua), cho dù có thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nếu xu hướng này vẫn tiếp diễn, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những quan ngại về bền vững tài khoá.
"Đi cùng với nợ tăng cao, cơ cấu nợ công cũng đã có sự thay đổi. Bởi lẽ nhu cầu huy động ngày càng lớn, trong khi khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi nước ngoài dần hạn chế, Chính phủ đã phải dựa chủ yếu vào nguồn vay trong nước. Tỷ trọng nợ trong nước trên tổng nợ công tăng từ 45% năm 2010 lên đến 55,4% năm 2015. Nợ trong nước giúp giảm rủi ro tỷ giá và góp phần phát triển thị trường vốn trong nước nhưng cũng làm giảm đáng kể kỳ hạn danh mục nợ”, báo cáo nêu.
WB nhận định, áp lực huy động để đảo nợ vẫn còn lớn với khoảng 50% nợ trong nước của Việt Nam sẽ đáo hạn trong 3 năm tới. Đây sẽ là áp lực rất lớn trong điều kiện các nhà đầu tư tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ còn hạn chế như hiện nay. Nhìn chung, kỳ hạn nợ trung bình của Việt Nam vẫn chưa thể bằng kỳ hạn bình quân của trái phiếu Chính phủ ở các quốc gia thu nhập trung bình và các quốc gia khác trong khu vực.
"Dù nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép nhưng hiện đang phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn. Bội chi ngân sách hiện đang ở mức cao, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là khoảng 5,6% GDP”, WB cho hay.
Theo đó, nếu bội chi ngân sách và mức bảo lãnh của Chính phủ vẫn duy trì như hiện nay thì tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam sẽ tăng vượt trần cho phép (65% GDP) trong những năm tới, kể cả khi tăng trưởng GDP có được duy trì ở mức cao và chi phí huy động vẫn còn tương đối thuận lợi như hiện nay.
Mặt khác, dư địa ngân sách đang ngày càng trở nên mỏng, khiến cho nợ công có thể trở nên mất bền vững ngay cả khi có những cú sốc nhẹ. Nghĩa vụ nợ dự phòng nếu được hiện thực hoá có thể làm cho Việt Nam càng thêm dễ tổn thương với lộ trình nợ như hiện nay ngay cả khi cân đối ngân sách cơ bản của Việt Nam vẫn được cẩn trọng.
WB cho rằng dù Chính phủ với nguyên tắc tăng cường kỷ luật tài chính, không có trách nhiệm trả nợ cho doanh nghiệp thua lỗ nhưng trên thực tế Chính phủ vẫn có thể can thiệp nếu tình trạng thua lỗ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Vì vậy, báo cáo khuyến nghị công tác quản lý nợ của Chính phủ phải tính đến những rủi ro đó, đồng thời phải duy trì được dư địa ngân sách đủ để hấp thụ những cú sốc đó trong trường hợp xảy ra.
Các kế hoạch củng cố ngân sách theo các cam kết hiện nay của Chính phủ phải được triển khai một cách nhất quán để đảm bảo quỹ đạo nợ công quay lại lộ trình bền vững, đặc biệt trong bối cảnh yếu tố ưu đãi của nợ nước ngoài đang có xu hướng giảm xuống.
4 khuyến nghị của WB
Trên cơ sở đó, WB đã đưa ra các khuyến nghị chính trong quản lý nợ công cho Chính phủ Việt Nam.
Thứ nhất, Chính phủ cần xây dựng và thực hiện một lộ trình củng cố tình hình tài khóa, để đảm bảo sự bền vững tài khóa song không hoặc ít ảnh hưởng tới tăng trưởng kinhtế. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải có cam kết mạnh mẽ về giảm bội chi và duy trì nợ công trong phạm vi giới hạn cho phép (65% GDP).
Các phương án củng cố tình hình tài khóa có thể được cân nhắc trên cơ sở phối hợp các biện pháp nhằm đẩy mạnh huy động thu, tái cơ cấu và nâng cao hiệu suất chi tiêu, tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng và khai thác tài sản công, quản lý nợ công và rủi ro tài khóa. Tái cơ cấu chi tiêu công cũng cần đảm bảo các khoản chi an sinh xã hội, đầu tư phát triển và dành dư địa cho các chi phí tái cấu trúc nền kinh tế.
Thứ hai, Chính phủ cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư công, tăng cường động lực tăng trưởng bền vững như cơ cấu lại ngân sách ở mức độ nhất định cho phù hợp, nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản thông qua việc từng bước tăng chi khai thác và duy tu bảo dưỡng qua kế hoạch tài chính-ngân sách và kế hoạch đầu tư trung hạn.
Thứ ba, Chính phủ phải nâng cao công bằng trong phân phối nguồn lực giữa các địa phương. Theo đó, cần chú trọng hơn đến việc nuôi dưỡng nguồn thu, ví dụ như cân nhắc tạo thêm cơ hội nâng cao tự chủ về thu cho các địa phương và nghiên cứu áp dụng cơ chế phân chia nguồn thu đối với một số sắc thuế gián thu lớn (như thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt) công bằng và minh bạch hơn, nhằm khuyến khích địa phương phát triển kinh tế đồng đều hơn.
Thứ tư, WB khuyến nghị cải cách thể chế quản lý tài chính công của Việt Nam, trong đó cần tăng cường mức độ toàn diện và minh bạch của ngân sách. Tăng cường cơ chế quản lý hiệu quả hoạt động và giải trình trách nhiệm; Giám sát và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước và kiểm toán bên ngoài và cải thiện hệ thống thông tin quản lý.
Mới đây, Bộ Tài chính đã công bố Bản tin nợ công số 5. Theo đó, tính đến hết năm 2015, nợ công của Việt Nam lên tới 61% GDP, tăng 3% so với năm trước đó. Trong đó nợ nước ngoài chiếm 42% GDP. Nợ Chính phủ so với GDP năm 2015 là 49,2%.
Năm 2015, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách là 14,9% GDP.
Trong năm 2015, tổng dư nợ mà Chính phủ vay là 2,064 triệu tỷ đồng, tương ứng 94,3 tỷ USD. Trong đó, nợ nước ngoài là 39,6 tỷ USD, nợ trong nước là 54,67 tỷ USD. Cũng trong kỳ, Chính phủ đã trả nợ được 13,3 tỷ USD.
Bản tin nợ công lần này của Bộ Tài chính có thống kê các khoản nợ vay nước ngoài của cả Chính phủ và doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2015, tổng dư nợ vay nước ngoài của Việt Nam lên tới 1,759 triệu tỷ đồng, tương ứng 80,84 tỷ USD. Trong đó, nợ nước ngoài của Chính phủ lên tới 39,6 tỷ USD, nợ nước ngoài của doanh nghiệp đạt 41,22 tỷ USD.
Nguồn VnEconomy