Việt Nam sẽ chỉ có 44 cảng biển
Theo đề xuất của Bộ Giao thông - Vận tải, các cảng biển Việt Nam được phân thành 3 loại là cảng biển loại I, cảng biển loại II, cảng biển loại III.
Trong đó, cảng biển loại I là cảng biển đặc biệt quan trọng phục vụ chủ yếu cho việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc liên vùng. Đối với các cảng biển loại I có vai trò là cảng cửa ngõ hoặc trung chuyển quốc tế được ký hiệu là loại IA.
Cảng biển loại II là cảng biển quan trọng phục vụ chủ yếu cho việc phát triển kinh tế - xã hộicủa vùng, địa phương.
Cảng biển loại II là các cảng biển chuyên dùng phục vụ chủ yếu cho hoạt động của doanh nghiệp.
Việc phân loại cảng biển căn cứ theo 3 tiêu chí chính: đặc điểm vùng hấp dẫn của cảng biển; vai trò cảng biển đối với phát triển kinh tế - xã hội; quy mô cảng biển (lượng hàng hóa, loại hàng hóa thông qua cảng biển; tổng chiều dài bến cảng, trọng tải tàu tiếp nhận ở thời điểm đánh giá và theo quy hoạch); xu hương đầu tư và phát triển.
Dựa trên các tiêu chí này, Bộ Giao thông - Vận tải đề xuất Thủ tướng Chính phủ phân loại các cảng biển như sau:
14 cảng biển loại I (giảm 2 cảng so với Quyết định số 16/2008/QĐ - TTg): Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Khánh Hóa, Tp HCM, Vũng Tàu, Đồng Nai, Cần Thơ. Trong nhóm cảng loại I có 3 cảng loại IA là Hải Phòng, Khánh Hòa (Vân Phong) và Vũng Tàu.
17 cảng biển loại II (giảm 6 cảng): Hải Thịnh, Diêm Điền, Quảng Bình, Cửa Việt, Kỳ Hà, Vũng Rô, Bình Dương, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Năm Căn, Kiên Giang.
13 cảng loại III là các cảng dầu khí ngoài khơi: Mỏ Rồng Đôi, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Lan Tây, Sư Tử Đen, Đại Hùng, Chí Minh, Ba Vì, Vietsopetro 01, Chim Sáo, Tê Giác Trắng, Sông Đốc, Sư tử Vàng.
Nguồn Đầu tư