Thứ Năm | 28/11/2013 06:32

Vì sao nhà băng "chán" doanh nghiệp thủy sản?

Số doanh nghiệp ngành thủy sản phát sinh nợ xấu tăng quá nhanh tại các tổ chức tín dụng.

Không ít ngân hàng đang ngoảnh mặt với doanh nghiệp nuôi trồng chế biếnthủy sản.

"Nếu như họ chỉ chí thú làm ăn đúng ngành nghề, quản trị dòng tiền tốt, không đầu tư dàntrải vào đất đai thì khi thị trường xuất khẩu gặp khó, họ không lụn bại nhanh như vậy", một cán bộcủa ngân hàng BIDV thốt lên khi nói về một số doanh nghiệp thủy sản đồng bằng sông Cửu Long, tạihội thảo về hoạt động tín dụng ngân hàng cho khu vực này, diễn ra hôm 25/11 tại VĩnhLong

Ngân hàng dư vốn, lãi suất thấp. Doanh nghiệp cần vốn. Nhưng hai bên lại không gặp nhau. Được thụhưởng nhiều ưu đãi từ chính sách tín dụng của Chính phủ cũng như tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về vốncủa Ngân hàng Nhà nước, nhưng do thị trường khó khăn, cộng với khả năng quản trị yếu kém và đặcbiệt là sau cú sốc của các doanh nghiệp thủy sản Bình An, Phương Nam, Sông Hậu..., không ít ngânhàng đang ngoảnh mặt với doanh nghiệp nuôi trồng chế biến thủy sản.

Không phải bỗng dưng các ngân hàng lại thờ ơ với doanh nghiệp thủy sản đồng bằng sông Cửu Long, khimà trước đó, các doanh nghiệp vẫn có thị trường xuất khẩu tốt, nguồn thu ngoại tệ dồi dào, khiếncho một số đơn vị trở thành "nàng công chúa" với nhiều ngân hàng ve vãn xung quanh.

Thế mạnh kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu tập trung vào lúa gạo và thủy sản, do đó,nhiều năm nay, phần lớn các tổ chức tín dụng trên địa bàn đều tập trung nguồn lực vào hai lĩnh vựcnày. Tuy nhiên, đến thời điểm này, đã có sự phân hóa trong dư nợ tín dụng giữa lúa gạo và thủysản.

Ông Nguyễn Viết Mạnh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, tính đến hết tháng9/2013, nếu như dư nợ cho vay thu mua lúa gạo đạt 21.667 tỷ đồng, tăng 27,35% so với dư nợ thờiđiểm 31/12/2012, chiếm 77,18% tổng dư nợ cho vay thu mua lúa gạo toàn quốc, thì dư nợ cho vay thủysản tại đây lại rất thấp.

Cụ thể, 9 tháng đầu năm, doanh số cho vay nuôi trồng, thu mua chế biến thủy sản đạt 54.796 tỷ đồng,trong khi dư nợ đạt 36.526 tỷ đồng, chỉ tăng 3,77% so với thời điểm 31/12/2013, một tỷ lệ quá thấpso với 27,35% của lúa gạo.

Ngay cả với cá tra, một trong những thế mạnh đặc thù khu vực này, tín dụng 9 tháng đầu năm cũngtăng èo uột với doanh số chỉ 34.713 tỷ đồng, dư nợ đến 30/9/2013 đạt 23.173 tỷ đồng, chiếm 63,44%dư nợ cho vay thủy sản toàn khu vực, và chỉ tăng 1,74% so với thời điểm 31/12/2012.

Một điểm sáng duy nhất trong chính sách tín dụng đối với nuôi trồng, chế biến thủy sản là các ngânhàng vẫn còn mặn mà với con tôm khi doanh số cho vay đạt 28.102 tỷ đồng, dư nợ đến 30/9 đạt 16.607tỷ đồng, tăng 31,19% so với đầu năm.

Cũng vì vậy, tính đến 30/9/2013, 5 ngân hàng thương mại do nhà nước chi phối vốn trên địa bàn đãgia hạn nợ cũ từ 15/8/2012 trở về trước là 8.720 tỷ đồng, tương ứng với 4.554 lượt khách hàng.Trong đó, dư nợ gia hạn đến 6 tháng trên 5.868 tỷ đồng; từ 6 - 12 tháng trên 1.987 tỷ đồng; trên 12- 24 tháng là 862 tỷ đồng.

"Đừng quá ỷ lại vào ngân hàng. Mở rộng tín dụng mãi, coi đó là đòn bẩy để vực mà không được thì mộtngày nào đó, chính cái đòn bẩy đó sẽ trở thành đòn thọc vào chính mình", chuyên gia Lê Thẩm Dương(Đại học Ngân hàng Tp HCM) phát biểu.

Còn theo đại diện BIDV, chất lượng tín dụng khu vực này đang bộc lộ nhiều vấn đề, trong đó dưnợ cho thủy sản bị ngưng trệ, nợ xấu trong khu vực này tăng nhanh. Thực tế này đã nảy sinh tìnhtrạng ngân hàng dư vốn, lãi suất thấp nhưng niềm tin giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại bị rạn nứt,khiến cho tín dụng đóng băng.

Do đó, BIDV cho rằng, trước hết, nên tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ lãi suất, ưu tiên chocác ngành, lĩnh vực như thủy sản, lúa gạo và chế biến hàng xuất khẩu.

Thứ hai, số doanh nghiệp ngành thủy sản phát sinh nợ xấu tăng quá nhanh tại các tổ chức tín dụng,điều đó không chỉ ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận ngân hàng mà còn khiến các ngân hàng không muốn tiếptục cho vay. Vì vậy, ngoài các biện pháp "khoanh, giãn, hoãn, xóa" nợ, Ngân hàng Nhà nước cần cóthêm những biện pháp khác hỗ trợ ngân hàng thương mại xử lý nợ xấu trong ngành thủy sản.

Thứ ba, do đặc thù cho vay thủy sản luôn có giá trị tài sản bảo đảm thấp, trong khi giao dịch củadoanh nghiệp với đối tác lại chủ yếu bằng tiền mặt nên ngân hàng rất khó quản lý dòng tiền. Do đó,Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp tháo gỡ khó khăn về tài sản thông qua một cơ chế đặc thù nàođó.

Thứ tư, Nhà nước cần nhanh chóng rà soát, quy hoạch ngành nuôi trồng, chế biến thủy sản đảm bảonguồn cung phù hợp với nhu cầu, rà soát, phân loại các doanh nghiệp có uy tín, có năng lực sản xuấtđể tổ chức tín dụng không bị cuốn theo trào lưu "cứ thủy sản là cho vay" như trước đây.

Thứ năm, nghiên cứu xem xét để điều chỉnh tăng giới hạn cho vay khách hàng bằng tiền mặt để phù hợphơn với tập quán kinh doanh của doanh nghiệp, hộ dân tại đồng bằng sông Cửu Long thay vì chỉ ở mức100 triệu đồng như hiện nay.

Nguồn VnEconomy


Sự kiện