VBF: Phần lớn ngân hàng có vấn đề do chênh lệch kỳ hạn tài sản - nguồn vốn
Báo cáo của nhóm công tác Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) cho rằng, phần lớn các ngân hàng Việt Nam đang có vấn đề do chênh lệch lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và nguồn vốn. Đó là trên 80% nguồn vốn có kỳ hạn dưới 6 tháng trong khi 40% giá trị tài sản có kỳ hạn hơn 3 năm.
Căn cứ trên những biến động đã qua về lãi suất, các ngân hàng đang đứng trước những rủi ro lớn về lãi suất, dẫn tới những khó khăn thường xuyên về thanh khoản và một số rủi ro hệ thống tiềm tàng đối với ngành ngân hàng cả nước. Một trong những giải pháp chính để xử lý rủi ro mất cân đối về kỳ hạn này là phải tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn nội địa hiện còn non yếu.
Theo đó, phát triển thị trường vốn/thị trường nợ trong nước cũng như xây dựng được một nền tảng vững chắc để quản lý tài sản/nguồn vốn chắc chắn sẽ đem lại lợi ích nhiều mặt cho Việt Nam, trong đó ít nhất sẽ bảo đảm: tăng cường tiếp cận các nguồn vốn đa dạng của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng; tạo điều kiện cho các nhà đầu tài chính, cả trong và ngoài nước lựa chọn được những công cụ đầu tư phù hợp hơn; sử dụng đồng nội tệ làm công cụ kinh doanh, công cụ vốn ổn định để thoát ly sự phụ thuộc vào đồng USD và các ngoại tệ khác; quản lý hiệu quả rủi ro lãi suất cho các nhà đầu tư và đơn vị phát hành; tránh các đột biến, biến động lớn do thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước...
Tuy nhiên, để phát triển thị trường vốn/thị trường nợ nội địa và quản lý tài sản/nguồn vốn hiệu quả cũng sẽ không hề dễ dàng trong tình hình hiện nay. Cần phải có nhiều nỗ lực và cơ chế, chính sách từ các cơ quan quản lý cũng như sự phối hợp của Chính phủ và các thành phần thị trường để thực hiện mục tiêu này.
Nhóm công tác ngân hàng VBF chỉ ra một số điều kiện cần để bảo đảm xây dựng, phát triển thị trường vốn/thị trường nợ nội địa, cũng như tăng cường hiệu quả quản lý tài sản/nguồn vốn là cần điều chỉnh, tăng cường các chế độ kế toán trong nước cho phù hợp, hay chí ít là theo kịp với tiêu chuẩn quốc tế.
Đồng thời, cần tăng cường đáng kể khung pháp lý về xử lý các trường hợp phá sản/vỡ nợ để bảo vệ nhà đầu tư. Đặc biệt cần áp dụng các phương pháp giá trị thị trường, cả về rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng để đánh giá đúng mức độ rủi ro và giá trị sổ sách.
Những quy định bất hợp lý, thiếu hiệu quả như hạn chế các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ chéo bằng cách áp đặt số vốn gốc và mức ngưỡng tổng lãi ròng như tối đa 5% vốn tự có của ngân hàng sẽ là cản trở lớn đối với những tiến trình phát triển vì đây là những biện pháp đi ngược lại xu thế hiện tại và cần có cách tiếp cận dựa trên giá thị trường và giá trị rủi ro ước tính (VAR).
Ngoài ra, cần tăng cường đáng kể thị trường trái phiếu chính phủ và tín phiếu NHNN căn cứ trên khối lượng và mức độ ổn định của các đợt phát hành theo những kỳ hạn chính vì uy tín của chính phủ sẽ là cơ sở của mọi công cụ nợ nội địa. Áp chuẩn lãi suất thực, ít nhất phải có kỳ hạn ổn định là 1 tháng hay 3 tháng với sự điều tiết của một cơ quan quản lý cụ thể (tốt nhất là NHNN).
Xây dựng thị trường hoán đổi lãi suất nội tệ để tạo điều kiện cho nhà đầu tư cũng như các đơn vị phát hành trong việc quản trị các rủi ro tài sản có/tài sản nợ cũng như tình trạng mất cân đối kỳ hạn - vấn đề này chỉ có thể giải quyết được nueeus xử lý được các vấn đề nêu trên.
VBF cho rằng Việt Nam cần cho phép các đơn vị phát hành trái phiếu nước ngoài tham gia thị trường trái phiếu Việt Nam nhằm hình thành những tài sản có chất lượng cao nhất cho thị trường, từ đó góp phần gia tăng quy mô các nhà đầu tư trái phiếu thường xuyên.
Cần thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm trong nước theo các thông lệ tối ưu quốc tế để tăng cường minh bạch, nâng cao lòng tin của nhà đầu tư với tất các kỳ hạn trái phiếu.
Cuối cùng, cần cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu bằng VND để thu hút thêm các đơn vị phát hành quốc tế vào Việt Nam cũng như tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế và quản trị doanh nghiệp tối ưu trên thị trường.
Nguồn DVO/VBF