Trung Quốc tranh mua nguyên liệu, ngành chè xáo động
Bà Nguyễn Thị Ánh Hồng, Tổng thư ký Hiệp hội Chè Việt Nam, tại Họp thường niên nhóm công tác PPP ngành hàng thuộc đối tác phát triển bền vững nông nghiệp Việt Nam (PSAV), hôm 16.8, cho biết: “Ngành chè đang xáo động”.
Bán chè rất khó
Việt Nam hiện có khoảng 130.000ha chè, tập trung ở 34 tỉnh, thành trên cả nước. Với thu nhập khoảng 20 triệu đồng/ha đối với chè giống thường và từ 60 - 90 triệu đồng/ha đối với chè cao sản, ngành chè không những mang lại giá trị kinh tế lớn mà còn giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 6 triệu lao động trên cả nước.
Tổng thư ký hiệp hội chè Việt Nam, cho biết, biến động tỷ giá, ngành chè không chịu nhiều tác động, nhưng hơn một tháng nay bán chè rất khó, trong khi vẫn phải bảo đảm thu mua chè nguyên liệu cho dân. Bà Hồng nói: “Điều này đang đè nặng lên các doanh nghiệp trong nước”.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội Chè Việt Nam, ngày một nhiều công ty tên Việt Nam nhưng do người Trung Quốc đi thu mua chè nguyên liệu. Nếu doanh nghiệp trong nước mua giá 20 nghìn đồng, người Trung Quốc mua giá 30 nghìn đồng. Doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh được.
Đến nay, 80% sản lượng chè được xuất khẩu nhưng doanh nghiệp vẫn phải chịu thuế giá trị gia tăng (VAT). Quy định hoàn thuế sau 30 tháng xuất khẩu, với những thủ tục rườm rà, đang gây đọng vốn của doanh nghiệp.
Thêm nữa, việc cấp phép mở thêm nhiều xưởng chế biến đang gây khó khăn cho tiêu thụ. Đến nay, trên cả nước không có thêm vùng nguyên liệu chè.
Doanh nghiệp đang đưa chè Việt Nam tới nhiều thị trường trên thế giới. Ông Chu Xuân Ái, Giám đốc Công ty Phát triển Công nghệ và Thương mại Tân Binh, cho biết, công ty của ông đang xuất khẩu chè sang thị trường Nga.
“Tại thị trường Nga, chè Việt Nam được bán với giá cao hơn chè Trung Quốc”, ông Ái cho biết. Theo ông, có tình trạng người Trung Quốc phải “mượn” nhãn “chè Việt Nam” đế bán được hàng do người tiêu dùng Nga thích sử dụng các sản phẩm chè của Việt Nam hơn chè Trung Quốc.
Xuất khẩu chè xu hướng giảm
Theo các báo cáo của đơn vị thống kế và nghiên cứu ngành nông nghiệp, chè Xuất khẩu chè tháng 7.2018 ước đạt 10 nghìn tấn với giá trị đạt 18 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu chè 7 tháng đầu năm 2018 ước đạt 67 nghìn tấn tương đương 109 triệu USD, giảm 12,9% về lượng và 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Các thị trường chính của chè Việt Nam trong nửa đầu năm 2018 tiếp tục là Pakistan với 29,9 triệu USD, chiếm 32,8%, Đài Loan với 12,6 triệu USD, chiếm 13,8%, Nga với 11,1 triệu USD, chiếm 12,1%, Trung Quốc với 7,2 triệu USD, chiếm 7,9%, Indonesia với 4,4 triệu USD, chiếm 4,8% và Mỹ với 3,8 triệu USD, chiếm 4,1%.
Điểm nhấn của xuất khẩu chè trong tháng 6.2018 là sự khởi sắc trở lại của thị trường Pakistan, thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam. Lượng xuất khẩu chè sang Pakistan tháng 6/2018 tăng tới 62,6% so với tháng 5/2018 và tăng 62.5% so với tháng 6.2017.
Do đó, lũy kế xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 sang thị trường Pakistan, tăng đến 1,3 nghìn tấn (tương đương 10,9%) so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường có mức tăng trưởng mạnh tiếp theo trong 6 tháng đầu năm 2018 là Đài Loan tăng 510 tấn (tương đương 6,7%), Mỹ tăng 429 tấn (tương đương 14,9%), Trung Quốc tăng 412 tấn (tương đương 7,9%) và Malaisia tăng 350 tấn (tương đương 21,0%) so với cùng kỳ năm 2017.
Nguyên nhân khiến lượng xuất khẩu chè các tháng đầu năm 2018 vẫn trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2017 là do sự tăng trưởng từ các thị trường trên không đủ bù đắp cho sự suy giảm liên tục tại các thị trường chính khác.Đáng chú ý, sự tăng trưởng mạnh tại thị trường mới nổi Philippines. Tổng xuất khẩu chè sang Philippines trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng đến 8,4 lần về lượng và 21,7 lần về giá trị, mặc dù Philippin không nằm trong top 10 thị trường chính của chè Việt Nam và xuất khẩu chè sang thị trường này chỉ đạt 376 tấn và 979 nghìn USD trong 6 tháng đầu năm 2018.
Cụ thể, trong nửa đầu năm 2018, xuất khẩu chè sang Nga, thị trường lớn thứ 2 của xuất khẩu chè Việt Nam – chiếm 13% thị phần, giảm đến 1,23 nghìn tấn (tương đương 14,3%), Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất giảm 1,19 nghìn tấn (tương đương 57,0%) và Indonesia giảm 427 tấn (tương đương 8,7%) so với cùng kỳ năm 2017.
Giá chè xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2018 ước đạt 1.627 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, tại thị trường trong nước, giá chè tháng 7.2018 tiếp tục giữ ở mức ổn định 105.000 đồng/kg đối với chè xanh búp khô, 200.000 đồng/kg chè cành chất lượng cao tại thị trường Thái Nguyên; và 9.000 đồng/kg đối với chè nguyên liệu (búp tươi) sản xuất chè xanh loại 1, 6.000 đồng/kg đối với chè nguyên liệu sản xuất chè đen tại thị trường Lâm Đồng.
Giá chè trong nước được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức ổn định như hiện tại trong các tháng cuối năm 2018, do chưa có dấu hiệu nào cho thấy giá sẽ biến động mạnh.
Trước tình trạng này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khuyến cáo, bên cạnh việc nâng cao chất lượng chè, Ngành chè cần có biện pháp khuyến khích tăng tiêu dùng chè trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh lượng xuất khẩu đang có xu hướng giảm như hiện nay. Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm vào các phân khúc như chè hữu cơ, chè đặc sản để nâng cao giá trị gia tăng cho chè.