Trà Việt cam chịu xuất thô, chỉ chiếm chưa đầy 20% giá trị sản phẩm
Hoặc thay đổi hoặc biến mất
Trong 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu trà của Việt Nam giảm đến 10,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019 (theo Cục Xuất nhập khẩu). Với 70% tổng sản lượng dành cho xuất khẩu, đại dịch COVID-19 trên toàn cầu đã đẩy nhiều nhà sản xuất trà trong nước vào tình thế cam go: lựa chọn giữa thay đổi cách làm hoặc rời khỏi ngành.
Từ khi dịch lan rộng, các thị trường lớn của ngành trà như Đài Loan, Trung Quốc và Nga gần như đóng băng. Ở các thị trường khác, doanh nghiệp không ký được hợp đồng mới, trong khi các hợp đồng đã ký trước đây được yêu cầu giảm giá sâu, hoãn thời gian giao hàng hoặc hủy hợp đồng.
Theo dự báo của Hiệp hội Thương mại Trà Đông Phi, giá trà thế giới sẽ giảm trong thời gian tới, những hạn chế trong việc vận chuyển hàng hóa làm giảm nhu cầu tiêu thụ trà ở nhiều quốc gia, các nhà xuất khẩu đặt giá thầu thấp trong bối cảnh đơn hàng từ các nhà nhập khẩu ở EU giảm do tác động của dịch COVID-19. Vì thế, hoạt động xuất khẩu trà Việt trong thời gian tới sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Thực tế trên đã buộc các doanh nghiệp xuất khẩu trà phải tính đến chuyện tái cơ cấu hoạt động sản xuất lẫn chiến lược kinh doanh. Công ty Cổ phần Long Đỉnh (Lâm Đồng) là một ví dụ. Hiện doanh nghiệp này có 50 ha trà chất lượng cao được cấp chứng nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Mỗi năm, hơn 90% sản phẩm của Công ty được xuất sang thị trường Đài Loan dưới dạng nguyên liệu thô với giá bán không cao.
Theo bà Trần Phương Uyên, Phó Giám đốc Công ty, từ tháng 3 đến nay, sản lượng xuất khẩu trà thô của Long Đỉnh đã giảm 30% so với trước. Công ty đang đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường, hướng vào sản phẩm cao cấp hơn thông qua việc sản xuất trà hữu cơ (True Organic) để tiêu thụ trong nước.
Công ty đang sản xuất 10 ha có chứng nhận sản xuất True Organic của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Tuy nhiên, với giá thành cao, việc đẩy mạnh tiêu thụ trà hữu cơ trong nước đang là bài toán lớn mà Long Đỉnh phải tìm lời giải.
“Đến nay, Công ty đã bán được 3 tấn trà hữu cơ thành phẩm. Hiện Công ty chịu lỗ nhưng vẫn giữ nguyên giá sản phẩm để người tiêu dùng dần quen với sản phẩm hữu cơ”, bà Uyên chia sẻ.
Theo ước lượng của nhiều người trong ngành trà, hiện khoảng 90% lượng trà tiêu thụ nội địa vẫn đến từ các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất thủ công, chất lượng không ổn định. Các doanh nghiệp trà Việt Nam tạo được thương hiệu rộng rãi mới chỉ ở hàng chục như Cozy, Phúc Long, Cầu Tre, Cầu Đất, Vinatea... Dù đã có thêm nhiều dòng sản phẩm hấp dẫn nhưng doanh nghiệp trà Việt Nam vẫn loay hoay tìm cách đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Trà Việt Nam, từng cho biết doanh nghiệp Việt mở kênh phân phối sản phẩm sâu không dễ dàng vì chi phí cao gấp 3 lần việc mở một nhà máy sản xuất. Ông chia sẻ: “Chính sách của Nhà nước mới chỉ tập trung hỗ trợ sản xuất mà ít giúp đỡ các doanh nghiệp tiêu thụ. Để xây dựng thương hiệu và bán được sản phẩm ra thế giới, chúng ta phải xây dựng các tập đoàn có tiềm lực tài chính. Thế nhưng, thực tế cho thấy một số doanh nghiệp sản xuất trà khô xong đều muốn bán vội để quay vòng, không đóng gói để đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng”.
Hiện nay, hoạt động sản xuất tại Việt Nam đã trở lại bình thường, sản lượng trà sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi đại dịch. Các quốc gia xuất khẩu trà lớn như Ấn Độ, Kenya, Sri Lanka vẫn trong tình trạng kiểm soát dịch bệnh nên bị hạn chế hoạt động thu hoạch, trồng trọt... làm ảnh hưởng đến sản lượng trà của các nước này.
Điển hình như Ấn Độ, do lệnh phong tỏa nghiêm ngặt nhằm tránh sự lây lan của dịch bệnh, các đồn điền phải tạm dừng thu hoạch, dự báo sản lượng trà của Ấn Độ trong năm 2020 giảm khoảng 9%. Bên cạnh đó, sản lượng trà của Trung Quốc, quốc gia xuất khẩu trà lớn nhất thế giới, cũng sẽ giảm do thời tiết không thuận lợi. "Vì vậy, trong thời gian tới dự kiến sẽ thiếu nguồn cung trà trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp sản xuất trà của Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu", Cục Xuất nhập khẩu nhận định.
Cần chất hơn lượng
Theo Euromonitor International, tiêu thụ trà toàn cầu được dự báo đạt 3,3 triệu tấn vào năm 2021, tăng 400.000 tấn so với năm 2016. Cũng theo công ty này, tiêu thụ trà tăng trưởng nhanh hơn tiêu dùng cà phê trong giai đoạn 2017-2021 với tốc độ tăng trưởng 15% so với 11,3% của cà phê. Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tiêu dùng cho cà phê hiện nay vẫn thấp hơn so với tiêu dùng trà. Tuy nhiên, phần lớn tăng trưởng tiêu dùng trà đến từ phân khúc trà uống liền hoặc đóng chai. Thị hiếu của người tiêu dùng hướng tới các sản phẩm đồ uống tốt cho sức khỏe tiếp tục làm tăng cầu đối với mặt hàng trà uống liền.
Có thể thấy, dịch cúm cũng là cơ hội để nhiều doanh nghiệp ngành trà thay đổi, nâng cao giá trị sản phẩm thay vì chạy theo sản lượng. Cho đến nay, hầu hết trà Việt đều xuất đi dưới dạng nguyên liệu thô, sau đó được đóng gói, pha trộn, hoặc chế biến để tiêu thụ ở thị trường nước sở tại hay xuất khẩu sang nước thứ 3. Vì vậy, trà Việt chỉ chiếm khoảng 5-20% giá trị sản phẩm cuối cùng, trong khi thương hiệu thường chiếm tới 40-60% giá trị sản phẩm. Đây là lý do khiến Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có giá xuất khẩu trà thấp nhất thế giới.
Mặt khác, Việt Nam có quá nhiều đầu mối xuất khẩu trà. Do đó, các đối tác nước ngoài thường sử dụng hợp đồng ký với đơn vị này để ép giá đơn vị kia. Các doanh nghiệp trong nước thay vì đầu tư nâng cao chất lượng, nâng giá xuất khẩu lại quay sang cạnh tranh lẫn nhau, ép giá xuống nông dân, khiến nông dân dần mất đi động lực chăm sóc cây trà tốt hơn.
Những năm gần đây, tại các vùng nguyên liệu như Thái Nguyên, Lâm Đồng đã xuất hiện nhiều gương mặt triển vọng trong giới sản xuất trà. Đó là những người trẻ đạt giải trong các cuộc thi khởi nghiệp, thường với các dự án sản xuất trà sạch. Cách làm của họ là liên kết chặt chẽ với nông dân, ứng dụng công nghệ kỹ thuật sản xuất mới, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư nghiêm túc và kiên trì vào mẫu mã, quảng bá thương hiệu. Thị trường mà đối tượng này nhắm đến bao gồm người tiêu dùng trung lưu trong nước, một số thị trường không quá khó tính như Nga, Indonesia, các nước Trung Đông.