Thủ tướng Trung Quốc thăm Việt Nam từ ngày 13/10
Đây là chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Trung Quốckể từ khi Trung Quốc có ban lãnh đạo mới và có ý nghĩa quan trọng trong việctăng cường, củng cố sự tin cậy chính trị, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiếnlược toàn diện giữa hai nước.
Là một nước láng giềng của Việt Nam với diện tích 9,6 triệu km2 và dân số hiệnnay 1,34 tỷ người, sau 30 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiềuthành tựu to lớn về phát triển kinh tế-xã hội: GDP tăng trưởng bình quân hàngnăm 9,8%, năm 2008 đạt 30.067 tỷ Nhân dân tệ (hơn 4.400 tỷ USD), vượt Đức lên vịtrí thứ 3 thế giới; ngoại thương Trung Quốc từ 20,6 tỷ USD, xếp thứ 32 thế giớinăm 1978 vươn lên thứ 3 thế giới vào năm 2004.
Năm 2010, Trung Quốc chính thức vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2thế giới với GDP tăng 10,3%, đạt 5879,1 tỷ USD. 6 tháng đầu năm 2013, GDP củaTrung Quốc đạt 24.800,9 tỷ Nhân dân tệ; kim ngạch thương mại 125.100 tỷ Nhân dântệ. Trung Quốc đã lần lượt vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới,vượt Mỹ trở thành thị trường ôtô lớn nhất thế giới, vượt Iran trở thành nướcsản xuất dầu mỏ thứ 4 thế giới và năm 2010, vượt Mỹ trở thành nhà chế tạo lớnnhất thế giới.
Về đối ngoại, Trung Quốc khẳng định kiên trì đi theo con đường phát triển hòabình. Với khu vực, Trung Quốc đặt trọng tâm vào các nước láng giềng, đẩy mạnhchính sách “Mục lân, an lân, phú lân” (hữu nghị với láng giềng, yên ổn với lánggiềng và làm giàu với các nước láng giềng). Hiện nay, ASEAN là đối tác thươngmại lớn thứ 3 của Trung Quốc và ngược lại, Trung Quốc là đối tác thương mại lớnnhất của ASEAN.
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tácViệt-Trung phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lạinhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đến nay, hai nước đã ký nhiều hiệp địnhvà văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hainước. Trao đổi đoàn ở trung ương và địa phương ngày càng tăng, hàng năm hai bêntrao đổi trên 200 đoàn, góp phần tăng cường hiểu biết và mở rộng hợp tác giữahai nước. Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn vàthiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng.
Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được đẩymạnh với việc hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các thỏa thuận hợp tác. Quanhệ giữa các địa phương hai bên cũng được tăng cường với nhiều hình thức đa dạngvà thiết thực như trao đổi đoàn các cấp, ký kết các văn bản hợp tác, cùng nhautổ chức hội thảo, triển lãm... Giao lưu giữa thế hệ trẻ hai nước cũng được tăngcường thông qua các cuộc gặp gỡ hữu nghị thanh niên, liên hoan hữu nghị nhândân...
Về hợp tác kinh tế, từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục là bạn hàng thươngmại hàng đầu của Việt Nam. Năm 2012, tổng kim ngạch thương mại hai chiềuViệt-Trung đạt 41,2 tỷ USD; trong đó Việt Nam xuất gần 12,4 tỷ USD, nhập gần28,8 tỷ USD, đều tăng so với 2011. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang TrungQuốc đã và đang có những chuyển biến tích cực.
Từ năm 2011 đến nay, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp xuất sang trung Quốc có xuhướng tăng dần, vượt qua nhóm hàng truyền thống nông lâm thủy sản. Tám tháng đầunăm 2013, kim ngạch thương mại song phương đạt 31,8 tỷ USD, trong đó, Việt Namxuất khẩu đạt 8,44 tỷ USD. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã dành nhiều thời giantrao đổi các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu duy trì đà tăng trưởng kim ngạchsong phương đi đôi với cải thiện cán cân thương mại. Hai bên đã ký “Quy hoạchphát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016."
Quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai nước có bước phát triển mới, nhiều tập đoàn lớncủa Trung Quốc bày tỏ mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Đến hết tháng 8/2013,Trung Quốc có 934 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký đạt 4,79 tỷ USD,đứng thứ 13 trong số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam. Trongnhững năm qua, Trung Quốc không ngừng tăng qui mô tín dụng ưu đãi dànhcho Việt Nam.
Đến nay, Trung Quốc đã cho Việt Nam vay 1,6 tỷ USD ưu đãi tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, đường sắt, năng lượng, dệt, hóa chất… Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc, giao lưu thanh thiếu niên, đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam.. .
Việc trao đổi, hợp tác giữa Việt Nam với Trung Quốc trong các lĩnh vực giáo dụcđào tạo, văn hóa-thể thao trong những năm qua cũng được đẩy mạnh. Hàng năm,Trung Quốc cung cấp và duy trì 130 học bổng dài hạn và 10 học bổng thực tập sinhngắn hạn cho Việt Nam. Hiện có hơn 13.500 lưu học sinh Việt Nam đang học tại cáctrường đại học của Trung Quốc với những ngành nghề đa dạng. Trung Quốc có trên3.500 học sinh đang du học tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các ngành tiếngViệt, du lịch và kinh doanh.
Hai bên đang tích cực triển khai Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt-Trunggiai đoạn 2013-2015. Về hợp tác du lịch, Trung Quốc là thị trường nguồn du lịchlớn nhất của Việt Nam. Những năm gần đây, hàng năm có khoảng 1 triệu du kháchViệt Nam thăm Trung Quốc.
Vấn đề biên giới lãnh thổ luôn được hai nước quan tâm. Sau khi bình thường hóaquan hệ, năm 1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyếtcác vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên cũng đã tiến hành đàm phán về 3 vấn đề:biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên biển (Biển Đông).Đến nay, hai bên đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền (1999); Hiệp địnhphân định Vịnh Bắc Bộ (2000); Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (2000); Nghịđịnh thư hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (2004).
Cuối năm 2008, hai bên hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đúng thời hạn lãnhđạo cấp cao hai nước đã thỏa thuận. Hai bên đã công bố Nghị định thư phân giớicắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quychế quản lý cửa khẩu. Hai bên đang tiến hành đàm phán để sớm ký Hiệp định về quychế về tàu thuyền qua lại tự do tại cửa sông Bắc Luân và Hiệp định về hợp tác vàkhai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc.
Hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợptác nghề cá Vịnh Bắc Bộ) được triển khai tương đối thuận lợi, công tác quản lýđánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào nề nếp, hạn chế tối đa các xung đột cóthể nảy sinh.
Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần trao đổi về vấn đề Biển Đông. Trong khuônkhổ đa phương, ASEAN, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cáchứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và Tuyênbố chung ASEAN-Trung Quốc...
Nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam lần này, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cườngvà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ trao đổi các phương hướng và biện pháp thúc đẩyquan hệ hợp tác giữa hai nước đi vào chiều sâu và thực chất hơn nữa trên tất cảcác lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, trao đổi ý kiến về tình hình quốc tếvà khu vực cùng quan tâm.
Cùng đi với Thủ tướng Lý Khắc Cường có: ông Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao; Chủ nhiệm Ủy ban Phát triển Cải cách Nhà nước Từ Thiệu Sử; Bộ trưởng Bộ Thương mại Cao Hổ Thành; Bí thư Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Bành Thanh Hoa; Phó Tổng Thư ký Quốc vụ viện Tiêu Tiệp; Trưởng Ban Nghiên cứu Quốc vụ viện Ninh Cát Triết; Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Khổng Huyễn Hựu; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lưu Chấn Dân; Phó Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Cục trưởng Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Dị Cương; Chủ nhiệm Văn phòng Thủ tướng Thạch Cương |
Nguồn TTXVN