Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Sẽ tính việc nới room tại các ngân hàng yếu
- Năm 2011, Thống đốc nói: “để dòng tiền đầu tư chảy vào TTCK thì lãi suất trên thị trường tiền tệ phải giảm xuống”. Thực tế, năm 2012, NHNN đã nhiều lần giảm lãi suất, nhưng dòng tiền vẫn không chảy vào TTCK. Bên cạnh đó, cổ phiếu ngân hàng vốn được mệnh danh là cổ phiếu vua, nhưng lại có thêm một năm 2012 “thất bát”. Vậy năm 2013 sẽ ra sao, thưa Thống đốc?
Việc giảm lãi suất chỉ là một trong các điều kiện để dòng tiền đầu tư chảy vào TTCK và tác động có độ trễ. Để TTCK thu hút vốn đầu tư thì căn bản nhất vẫn là hiệu quả sản xuất - kinh doanh của DN, sự ổn định của kinh tế vĩ mô và tâm lý thị trường. Trong năm 2012, mặc dù lãi suất giảm mạnh, nhưng nhiều DN còn gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa, hàng tồn kho lớn, nên TTCK chưa thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Về cổ phiếu ngành ngân hàng, có rất nhiều yếu tố tác động đến giá, trong đó có yếu tố về kết quả kinh doanh. Năm 2012, do tác động bất lợi của các yếu tố trong nước và quốc tế, nền kinh tế Việt Nam suy giảm, ngân hàng với vai trò là trung gian tài chính cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nợ xấu gia tăng dẫn đến phải trích lập dự phòng rủi ro lớn. Do đó, kết quả kinh doanh năm 2012 của các ngân hàng giảm so với các năm trước và kéo theo là giá cổ phiếu ngân hàng giảm.
Trong thời gian tới, với các giải pháp điều hành của NHNN và việc triển khai tích cực, có hiệu quả các giải pháp của các bộ, ngành theo chủ trương của Chính phủ, hàng tồn kho sẽ được giải phóng, hoạt động của các DN sẽ dần phục hồi và phát triển vững chắc, tôi tin rằng, TTCK sẽ hấp dẫn trở lại và cổ phiếu ngân hàng có thể được cải thiện.
- Trước thực trạng khó khăn của TTCK, nhiều ý kiến nêu quan điểm, nên nới room cho nhà đầu tư ngoại vào DN Việt Nam, trong đó có cả khối ngân hàng. NHNN có dự định nới room cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng trên mức 30% không, thưa ông?
Theo quy định tại Điều 4 (Khoản 1), Nghị định 69/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) mua cổ phần tại các ngân hàng TMCP Việt Nam, tổng mức sở hữu của các nhà ĐTNN (bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà ĐTNN đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Mức sở hữu này là phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như các hiệp định hội nhập kinh tế song phương và đa phương khác. Hiện nay, NHNN đang trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 69, trong đó, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà ĐTNN tại các tổ chức tín dụng Việt Nam được giữ nguyên theo quy định tại Nghị định 69; tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài được sửa đổi phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, theo đó, tỷ lệ này (20%) sẽ cao hơn so với nhà đầu tư trong nước (15%).
Để thu hút nhà ĐTNN, nhất là các ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính và kinh nghiệm tham gia vào quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 69 có bổ sung quy định: trong trường hợp đặc biệt, để thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Thủ tướng Chính phủ quy định tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà ĐTNN và người có liên quan tại tổ chức tín dụng cổ phần yếu kém được cơ cấu lại vượt quá tỷ lệ 30% vốn điều lệ tại tổ chức tín dụng đó đối với từng trường hợp cụ thể.
- Thống kê của Sở GDCK Hà Nội cho biết, năm 2012, trên 70% lượng trái phiếu chính phủ (TPCP) trúng thầu là do các NHTM trong nước mua và nắm giữ. Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là một nghịch lý khi tiền ngân hàng huy động từ dân, nhưng không được đưa trở lại sản xuất - kinh doanh. Thống đốc có giải pháp gì để cải thiện hiện trạng này?
Năm 2012, mặc dù mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm mạnh từ 5 - 9%/năm so với cuối năm 2011, nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng thấp, chủ yếu do các yếu tố về phía “cầu” như: sức cầu trong nước và cầu nước ngoài yếu, hàng tồn kho tăng cao..., nên DN giảm nhu cầu vay vốn. Bên cạnh đó, một bộ phận DN không đủ điều kiện vay vốn. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, người dân cũng hạn chế chi tiêu và giảm nhu cầu vay vốn tiêu dùng.
Các tổ chức tín dụng chỉ là những trung gian tài chính trong nền kinh tế. Khi huy động được vốn, họ sẽ cân đối nguồn vốn và cơ cấu tài sản cho phù hợp. Trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh, cầu tín dụng tăng cao thì việc mở rộng tín dụng thường được chú trọng, phần còn lại có thể dưới dạng dự trữ thanh khoản, có thể đầu tư vào các tài sản khác. Tuy nhiên, năm 2012, huy động vốn tăng cao, trong khi tín dụng khó mở rộng vì những nguyên nhân như đã nêu trên. Theo đó, để cơ cấu tài sản cho phù hợp với điều kiện chưa mở rộng được tín dụng, nguồn tiền do chênh lệch giữa huy động vốn và tín dụng được các tổ chức tín dụng đầu tư một phần vào TPCP. Việc làm này một mặt giúp các tổ chức tín dụng dự trữ thanh khoản, mặt khác góp phần tăng nguồn vốn cho Ngân sách Nhà nước, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, suy cho cùng, vốn ngân hàng chảy vào TPCP cũng gián tiếp được đưa vào nền kinh tế, đưa vào sản xuất - kinh doanh.
Sang năm 2013, NHNN tiếp tục điều hành chính sách lãi suất và tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. Khi đó, nhu cầu tín dụng đối với nền kinh tế sẽ phục hồi và hệ thống ngân hàng đảm bảo đáp ứng các nhu cầu vốn tín dụng phục vụ nền kinh tế.
- Tháng 3/2012, Thủ tướng ban hành Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam, trong đó có quy định, sẽ cải tiến công tác thanh toán giao dịch chứng khoán theo mô hình thanh toán tập trung qua NHNN. Thống đốc có thể bật mí về giải pháp thực hiện chỉ đạo trên?
Năm 2012 được đánh giá là một năm hết sức thành công của thị trường TPCP với khối lượng phát hành và mức tăng trưởng ấn tượng nhất. Đạt được kết quả như trên là có sự đóng góp quan trọng của NHNN thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, giúp ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp dưới 7%, mặt bằng lãi suất được điều chỉnh giảm xuống và duy trì ổn định. Đồng thời, tình hình thanh khoản dồi dào cho phép các tổ chức tín dụng tham gia tích cực vào thị trường TPCP, nên tỷ lệ trúng thầu trong các phiên đấu thầu rất cao. Mặt khác, sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài chính đã tạo điều kiện để tín phiếu kho bạc được giao dịch trên thị trường thứ cấp, cũng có tác động tích cực tới thị trường phát hành TPCP.
Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng ngày càng nhanh của thị trường cả về khối lượng và giá trị giao dịch, việc thanh toán TPCP qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) còn nhiều vấn đề cần giải quyết để đảm bảo cho sự vận hành thông suốt. NHNN nhận thấy rằng, cần phải đổi mới mô hình, tổ chức hoạt động thanh toán và lưu ký TPCP theo chỉ đạo của Thủ tướng, đặc biệt là giải pháp tổ chức hoạt động thanh toán TPCP qua NHNN để hướng tới 3 mục tiêu cơ bản. Một là, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Hai là, thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp và thứ cấp TPCP. Ba là, hỗ trợ thanh khoản cho thị trường thông qua việc thanh toán TPCP tại NHNN. Để giải quyết tốt vấn đề này, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhiều mặt.
Do đây là vấn đề tương đối phức tạp, có tính chất liên ngành, nên trong thời gian tới, NHNN sẽ chủ động phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan để triển khai, nhằm thúc đẩy thị trường TPCP phát triển vững chắc, hiệu quả và ổn định lâu dài.
(Theo Diễn đàn doanh nghiệp)