Thị trường trái phiếu Việt Nam: Các ngân hàng tiếp tục là người chơi chính
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện là tâmđiểm chú ý của các nhà đầu tư với mức tăng đáng ngạc nhiên trong thời gian qua.Trong khi đó, dù ít được quan tâm hơn nhưng một thị trường giao dịch các loạigiấy tờ có giá khác cũng sôi động không kém, đó là trái phiếu. Chưa lúc nào thịtrường trái phiếu sơ cấp lẫn thứ cấp lại nhộn nhịp như trong năm qua, trong đócác ngân hàng tiếp tục là người chơi chính.
Ngân hàng“sống” nhờ trái phiếu
Năm 2013, thị trường trái phiếu Việt Nam cómức tăng trưởng cao nhất khu vực châu Á cả về khối lượng trái phiếu phát hànhlần đầu lẫn trên thị trường thứ cấp. Theo Công ty
Chứng khoán Bảo Việt, năm 2013, quy mô huy độngvốn qua trái phiếu chính phủ đạt 194.800 tỉ đồng, tăng 25% so với năm 2012. Thịtrường thứ cấp cũng sôi động không kém. Giá trị giao dịch trái phiếu năm 2013phá vỡ mọi kỷ lục, đạt gần 40.000 tỉ đồng, gấp đôi năm 2012 và gấp gần 10 lầnso với năm 2010, 2011.
Lượng tiền khổng lồ này phần lớn có xuất phátđiểm là các ngân hàng thương mại, chiếm hơn 80% lượng tiền đổ vào trái phiếu.Bất chấp lợi suất trái phiếu giảm, các ngân hàng ngày càng đổ tiền vào loạigiấy tờ có giá này nhiều hơn, chủ yếu tập trung vào trái phiếu chính phủ đặcbiệt là với kỳ hạn ngắn (2 và 3 năm).
Thực tế, đây không phải là lần đầu ngân hàng bịhút vào trái phiếu chính phủ.
Giai đoạn 2008 - 2009, trái phiếu từng là kênhđầu tư hấp dẫn với mức lợi suất có lúc lên đến hơn 20%, tức ngân hàng có thểkiếm lời 20% từ việc mua bán trái phiếu. Đó là giai đoạn toàn nền kinh tế căngthẳng về thanh khoản, lãi suất rất cao.
Còn ngày nay, tiền mặt đang dư thừa, lãi suấtgiảm và đi kèm theo đó là lợi suất trái phiếu cũng giảm theo. Vậy mà, tráiphiếu vẫn hấp dẫn, và theo một cách hoàn toàn khác.
Theo Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS),thành viên tham gia đấu thầu trên thị trường trái phiếu, cuối năm 2013, dòngvốn chảy vào trái phiếu mạnh nhất là từ các ngân hàng có quy mô nhỏ và vừa. Sởdĩ như vậy vì các ông lớn đẩy được tín dụng trong những tháng cuối năm, trongkhi các ngân hàng nhỏ vẫn mắc kẹt trong hoạt động cho vay.
Năm 2013 là năm mà mọi lãi suất đều giảm, từ lãisuất liên ngân hàng, lãi suất trên thị trường mở, lãi suất huy động, khiến chocơ hội kiếm lời từ hoạt động cho vay của ngân hàng càng bị thu hẹp. Ngược lại,số vốn huy động được lại rất dồi dào. Thanh khoản dư thừa đến nỗi năm 2013 Ngânhàng Nhà nước đã tiếp tục duytrì trạng thái hút tiền về qua thị trường mở, thuvề 325.000 tỉ đồng, tăng 43,6% so với năm 2012.
Điều này cũng phản ánh ngay vào thị trường tráiphiếu, khi có tới 83% các giao dịch trên thị trường thứ cấp là mua đứt bánđoạn, thay vì các cam kết mua lại.
Trong cuộc chơi trái phiếu này, xem ra Chính phủlà người được lợi nhiều nhất, khi huy động được vốn dễ dàng hơn, không phảicạnh tranh với những người vay khác, với mức lãi suất ngày càng thấp hơn.
Nhưng, các ngân hàng thương mại cũng không phảichịu thiệt. Thử làm một phép so sánh nhỏ, mua trái phiếu kho bạc nhà nước kỳhạn 1 năm, ngân hàng có ngay mức lãi suất khoảng 6,2%. Trong khi đó, nếu chovay kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng, mức lãi suất khoảng 3-4%; cho vaytín dụng mức sinh lời dự kiến chỉ khoảng 2-3% (mức chênh lệch lãi suất cho vayvà huy động). Rõ ràng, nếu mua trái phiếu, ít nhất ngân hàng cũng cân bằng đượcchi phí huy động vốn.
“Vốn nhàn rỗi của các ngân hàng đang rất dồi dào.So với việc cho vay các kỳ hạn ngắn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suấtkhá thấp thì đầu tư vào trái phiếu chính phủ sẽ có lãi suất tốt hơn”, ông NgôĐăng Khoa, Giám đốc Kinh doanh Trái phiếu và các sản phẩm hoán đổi lãi suất củaHSBC, một ngân hàng ngoại đang tham gia đấu thầu trên thị trường trái phiếu sơcấp, đúc kết.
Trái phiếu chính phủ và trái phiếu do chính phủ bảo lãnh huy động thành công trên HNX. |
Đó là chưa kể ngoài việc được hưởng lãi suất khiđáo hạn, chẳng hạn mức 6,2% ở trên, người mua còn có thể kiếm lời từ việc muabán trái phiếu. Theo tính toán đơn giản của VCBS, các ngân hàng cũng có thểgiao dịch kiếm lời thêm khoảng 2 điểm phần trăm.
Tất cả những điều trên ủng hộ cho dự báo rằngtrái phiếu sẽ tiếp tục là lựa chọn ưa thích của ngân hàng trong năm nay, nhấtlà vì các ngân hàng sẽ có nhiều tiền hơn nữa. Hai nguồn tiền khổng lồ sẽ đổ vềngân hàng trong năm 2014 là trái phiếu đáo hạn tương đương132.560 tỉ đồng, cộngthêm số trái phiếu đặc biệt mà các ngân hàng nhận từ Công ty Quản lý Tài sảnVAMC.
Thừa tiền sẽ tiếp tục là câu chuyện lớn nhất củanền kinh tế năm 2014. Và trong bối cảnh không nhiều doanh nghiệp có nhu cầuvay, lối thoát duy nhất cho nền kinh tế phải chăng là kích thích đầu tư ở khuvực nhà nước?
Đổi vaiđầu tư
Giới tư nhân, từ vài năm trở lại đây, ngày càngvay tiền ít đi. Vai trò dẫn dắt đầu tư có vẻ như đang dần được trao về cho nhànước. Năm 2013, khối quốc doanh chiếm hơn 40% quy mô vốn đầu tư của toàn nềnkinh tế, so với tỉ trọng 37% của khối ngoài quốc doanh.
Kế hoạch phát hành trái phiếu Kho bạc Nhà nước 2014 |
Chỉ mới cách đây vài năm, cắt giảm đầu tư công làmột trong những ưu tiên trong gói giải pháp kiểm soát lạm phát của chính phủ.Và những bài học như Vinashin, Vinalines là áp lực khiến đầu tư công bị cắtgiảm mạnh tay hơn. Còn ngày nay, khi chính sách tiền tệ mở rộng tỏ ra không hiệuquả, các ngân hàng vẫn bất lực trong việc tìm doanh nghiệp tốt để cho vay,Chính phủ buộc phải chuyển sang thực thi chính sách tài khóa mở rộng, với mụctiêu tăng trưởng nhờ tăng tổng cầu.
Mục tiêu này đang được ủng hộ và Quốc hội đã đồngý nâng mức trần bội chi ngân sách từ 4,8% lên 5,3% vào cuối năm ngoái. Phầntiền chênh lệch này chủ yếu đến từ việc phát hành thêm trái phiếu.
Theo ông Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàngNhà nước, chủ trương của Chính phủ là dùng nguồn tiền này chi cho đầu tư pháttriển cơ sở hạ tầng. Năm 2013, chi đầu tư cơ sở hạ tầng theo ước tính của BộTài chính là hơn 196.000 tỉ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2012. “Chi cho đầu tưcơ bản là tốt, góp phần vào tăng trưởng trong ngắn hạn, đồng thời bù đắp chonguồn thu ngân sách kém đầu năm”, ông nói.
Tuy vậy, áp lực trả nợ sẽ không nhỏ. Năm 2013 cóhơn 76.000 tỉ đồng trái phiếu đến kỳ trả nợ. Đến năm 2014, con số này sẽ tănggấp 1,7 lần. Tăng quy mô vốn và vay mượn quá nhiều chắc chắn sẽ tạo áp lực lênngân sách và lạm phát về dài hạn.
Thậm chí, còn có một rủi ro khác lớn và quantrọng hơn. Đó là khả năng quản lý việc sử dụng nguồn vốn này.
Nếu ngân hàng là người trực tiếp cho vay đến cácdự án, họ sẽ là những người thẩm định hiệu quả của chúng.
Nhưng giờ đây, ngân hàng không trực tiếp kiểmsoát điều này mà vai trò thẩm định sẽ được chuyển sang cho Chính phủ, người cấpvốn cho các dự án. Các ngân hàng có bộ phận thẩm định, quản trị rủi ro chuyênnghiệp và có động cơ làm việc này tốt hơn các cơ quan quản lý nhà nước.
Theo Tiến sĩ Lê Hồng Giang, chuyên gia kinh tế -tài chính, rủi ro lớn nhất của đầu tư công ở Việt Nam là “bị thất thoát quá nhiều vàchất lượng công trình, sản phẩm quá tệ”.
Câu chuyện cầu treo Chu Va 6 (Lai Châu) bị đứtdây treo sau chỉ hơn 1 năm sử dụng, hay những vết nứt không thể làm ngơ trêncầu Vĩnh Tuy (Hà Nội) trị giá gần 3.600 tỉ đồng chỉ là 2 trong số những ví dụmới nhất minh chứng cho sự lo ngại của ông Giang.
Vì vậy, quan điểm ông là không ủng hộ, hoặc rấtdè dặt, với việc kích cầu thông qua đầu tư công vào thời điểm này. “Còn nếuphải làm, Chính phủ nên tập trung vào các chương trình phúc lợi xã hội, chẳnghạn cấp học bổng, cung cấp dịch vụ nhà trẻ, mẫu giáo, hoặc khám chữa bệnh miễnphí cho người nghèo”, ông Giang kết luận.
Ông Kiêm, dù ủng hộ tăng đầu tư công, ít nhất làtrong ngắn hạn, cũng cảnh báo: “Dòng vốn vay mượn này nhất định phải được kiểmsoát chặt chẽ, vì rất dễ bị sử dụng để trang trải các khoản mục khác trong chitiêu ngân sách”.