Thay đổi giao thương: Cơ hội giảm phụ thuộc nguồn nguyên liệu Trung Quốc?
Thương chiến Mỹ - Trung đang mở ra những cơ hội đầu tư mới cho các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế tạo biết kịp thời bắt nhịp cùng xu thế thị trường. Tuy nhiên, sự phụ thuộc nguồn nguyên liệu, vật tư và linh kiện từ thị trường Trung Quốc hay tiếp tục nhập khẩu từ Thái Lan, đều có thể làm teo tóp cơ hội này.
Áp lực lớn hơn
Trưởng Đại diện Văn phòng Hà Nội của Tổ chức Thúc đẩy Ngoại Thương Nhật Bản (JETRO), ông Hironobu Kitagawa, hôm 30.5, xác nhận với NCĐT: “Có nhiều doanh nghiệp từ Trung Quốc chuyển sang Việt Nam”. Ông không cho biết con số cụ thể.
Ông Kitagawa cho rằng, thương chiến Mỹ - Trung “không liên quan nhiều” đến sự dịch chuyển này của các doanh nghiệp Nhật Bản. Ông nói: “Các doanh nghiệp Nhật Bản luôn có kế hoạch phát triển dài hạn, với mong muốn có cứ điểm sản xuất lâu dài”.
Như vậy, một điều không thể phủ nhận, thương chiến Mỹ - Trung đã có những tác động làm thay đổi trong quan hệ giao thương giữa các nước phát triển, kéo theo đó là tiến trình tăng cường tối ưu hóa đáng kể nguồn lực của các tập đoàn đa quốc gia.
Bên cạnh chính sách tỷ giá linh hoạt của chính phủ một số nước, ngay từ đầu năm 2019 các phương án điều tiết và tăng cường giám sát chặt chẽ hệ thống tài chính đã tạo nên xu hướng chuyển đổi hoạt động sản xuất từ các thị trường quốc tế sang Việt Nam.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) trong quý I/2019 của Việt Nam đã chậm lại, thấp hơn so với tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước.
Số liệu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo lên Chính phủ, cho thấy, quý I/2019, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI chỉ tăng 2,7%, đạt 41,46 tỷ USD (kể cả dầu thô), nhưng khu vực trong nước đã tăng 9,7%, đạt 17,05 tỷ USD.
Điểm đáng lưu ý, động lực tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam lâu nay vẫn nằm ở khu vực FDI. Tình hình sẽ khó khăn và rủi ro cũng lớn khi ngày một nhiều doanh nghiệp dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam mà việc cung ứng nguyên liệu, vật tư và linh kiện ở trong nước không được cải thiện.
Đơn cử như Samsung, số lượng doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1 của doanh nghiệp này đang tăng lên. Từ 4 doanh nghiệp vào năm 2014, hiện đã có 35 doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại.
Thế nhưng, số lượng doanh nghiệp này chưa đáp ứng đủ nguyên liệu, vật tư và linh kiện để Samsung thực hiện các kế hoạch sản xuất tại Việt Nam cũng như đảm bảo sự tham gia vào mạng lưới toàn cầu theo chiến lược của Tập đoàn tại Hàn Quốc.
Chính sách rõ ràng hơn
Theo quan sát của Trưởng JETRO tại Hà Nội, xu hướng dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian tới khi nhiều doanh nghiệp cho rằng Việt Nam là “thị trường dễ làm”.
Nhật Bản, năm 2018 đã có số dự án đầu tư vào Việt Nam đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 630 dự án và tổng số vốn đầu tư đạt khoảng 8 tỷ USD, mức đầu tư cao thứ 2 tính đến thời điểm hiện tại.
Kết quả khảo sát năm 2018 của JETRO cho thấy gần 70% doanh nghiệp Nhật Bản đã và đang đầu tư vào Việt Nam trả lời “muốn mở rộng hoạt động kinh doanh” trong 1 đến 2 năm tới. Nhưng việc thị trường trong nước không đáp ứng đủ nguyên liệu, vật tư, linh kiện đang là một khó khăn lớn.
Ông Hironobu Kitagawa cho biết, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư và linh kiện của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam là 36.3% và đang tăng lên sau mỗi năm từ 10 năm qua, nhưng vẫn thấp so với tỷ lệ của Trung Quốc 66%, Thái Lan 57%.
Việc nhập khẩu nguyên liệu, vật tư và linh kiện từ các nước xung quanh, như Thái Lan, Trung Quốc, ông Kitagawa nói là: “Nguyên nhân chính dẫn đến gia tăng chi phí và rủi ro lớn cho doanh nghiệp, gây khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất trung và dài hạn tại Việt Nam”.
Ông Kitagawa cũng đề cập đến những hạn chế về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là một trong những vấn đề còn tồn đọng ở Việt Nam. Trong khi đó, sản xuất nguyên liệu, linh kiện và vật tư phần lớn do doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận.
Giảm phụ thuộc đầu vào từ Trung Quốc, vấn đề được Việt Nam đặt ra trong nhiều năm. Chính phủ cũng đã giao Bộ Công thương triển khai Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, giai đoạn 2016 – 2025, nhưng đến nay, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa được tạo điều kiện áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng hiện đại để từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu.
Quan sát sự phát triển của nền công nghiệp phụ trợ, Giám đốc Dự án Reed Tradex Việt Nam, ông Phan Ngân, cho biết, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đủ khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và thiếu tiềm lực cạnh tranh với các công ty nước ngoài.
Năm 2017, chỉ 21% DNNVV ở Việt Nam đạt chuẩn trở thành mắt xích của chuỗi cung ứng toàn cầu, thấp hơn nhiều so với 30% ở Thái Lan và 46% ở Malaysia, theo Giám đốc Dự án Reed Tradex Việt Nam.
Để nâng cao hơn tỷ lệ nguyên liệu, linh kiện và vật tư trong nước, Trưởng JETRO Hà Nội cho rằng, các chính sách của Việt Nam cần rõ ràng hơn, phù hợp hơn với khả năng kỹ thuật của Việt Nam đang dần tăng lên.
Ông nói, việc đầu tiên là Việt Nam phải xác định lĩnh vực cần tập trung, Chính phủ Việt Nam sẽ tập trung phát triển lĩnh vực nào, ô tô hay điện. Trên thực thế mỗi lĩnh vực công nghiệp có nguyên vật liệu, phụ tùng khác nhau.
Kế đến, Việt Nam cần đặt ra mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu như thế nào, vẫn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc hay vẫn tiếp tục nhập từ Thái Lan.
Ông Hironobu Kitagawa tin rằng, nếu những tồn tại hiện nay được giải quyết, sẽ có ngày càng nhiều doanh nghiệp Nhật Bản chú ý, quan tâm đến ngành sản xuất, chế tạo của Việt Nam. Thậm chí, có khả năng Việt Nam được thế giới công nhận “có kỹ thuật sản xuất và chế tạo cao”.