Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Quyết liệt trong hành động
Những kết quả bước đầu
Quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được thực hiện đã hơn 20 năm. Đây là một tiến trình lớn được Đảng và Nhà nước ta thực hiện khá nhất quán và sâu rộng, đến nay đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả nổi bật nhất là đã hình thành được một hệ thống khung pháp lý khá đồng bộ cho hoạt động của DNNN cũng như đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp (DN) này. Nhờ đó, khu vực DNNN đã được sắp xếp lại với cơ cấu hợp lý hơn, tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ hoặc những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác ít hoặc chưa tham gia.
Hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của DNNN, nhất là các tập đoàn, tổng công ty được nâng lên, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích. Công tác sắp xếp, cổ phần hóa DNNN đã được triển khai từng bước vững chắc. Hầu hết DNNN sau khi cổ phần hóa hoạt động hiệu quả hơn với các chỉ tiêu về tài chính, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, vốn điều lệ đều tăng hơn so với trước khi chuyển đổi.
Tuy nhiên, việc sắp xếp, cổ phần hoá DNNN còn chậm, chưa chặt chẽ; chức năng quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước chưa được phân định rõ; cơ chế quản lý, giám sát của chủ sở hữu còn nhiều tồn tại, bất cập. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, hiệu quả đầu tư ngoài lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính chưa cao. Năng lực quản trị DN của nhiều DNNN vẫn còn hạn chế. Một số DN vi phạm các quy định của Nhà nước, gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản nhà nước.
Với thực trạng này, việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN là đòi hỏi bức thiết nhằm đảm bảo DNNN tiếp tục là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được các yêu cầu trên, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011- 2015” tại Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012.
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN, các bộ, ngành, địa phương và toàn bộ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty đã tích cực triển khai xây dựng các cơ chế chính sách và xây dựng từng Đề án tái cơ cấu của mỗi DN. Tính đến cuối năm 2012, cả nước đã có 75 tập đoàn, tổng công ty (TĐ, TCT) nhà nước hoàn thành xây dựng Đề án tái cơ cấu, trong đó 45 TĐ, TCT nhà nước đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án tái cơ cấu làm cơ sở tổ chức triển khai trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, hệ thống cơ chế, chính sách đã được xây dựng trình cấp có thẩm quyền xem xét ban hành như: Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN; dự thảo Nghị định về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); dự thảo Nghị định về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý tài chính đối với DN có vốn nhà nước; dự thảo Nghị định về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DN có vốn nhà nước...
Quyết liệt đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Bước sang năm 2013, mục tiêu đặt ra là phải quyết liệt đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 929/QĐ-TTg và triển khai Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương cần tập trung chỉ đạo TĐ,TCT thực hiện hoàn tất việc xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án tái cơ cấu của từng TĐ, TCT với các giải pháp cụ thể liên quan đến hoạt động sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá; giải pháp thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cơ cấu lại nợ, đổi mới nâng cao năng lực quản trị, công nghệ, nguồn nhân lực. Chính phủ cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc và thực hiện ngay g i ả i pháp để tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, TĐ kinh tế, TCT nhà nước trong việc thực hiện tái cơ cấu DNNN, phương án sắp xếp, cổ phần hoá đã được phê duyệt.
Để triển khai hiệu quả nhiệm vụ trên cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt tập trung vào các nội dung sau đây:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý DNNN. Trong đó, hoàn thiện quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; quy định về giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn nhà nước; Hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các DN gắn với việc xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước và thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các định chế của Nhà nước có chức năng hỗ trợ cho quá trình sắp xếp, cổ phần hoá DNNN như: SCIC và Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC).
Đối với SCIC, tiếp tục củng cố, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm nâng cao năng lực quản trị và tài chính để SCIC sớm trở thành một tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp của Chính phủ. Đồng thời, tạo điều kiện để thực hiện tốt vai trò đại diện chủ sở hữu tại các DN nhận chuyển giao (bao gồm cả các TCT mà Nhà nước giữ dưới 50% vốn điều lệ sau cổ phần hoá), thúc đẩy quá trình thoái vốn của SCIC tại DN tiếp nhận không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ vốn.
Đối với DATC, đẩy nhanh tái cấu trúc và nâng cao năng lực cho DATC theo hướng hình thành Tổng công ty xử lý nợ chuyên nghiệp để tiếp tục phát huy vai trò hỗ trợ quá trình tái cơ cấu DNNN. Giao cho DATC chủ động tham gia hỗ trợ các TĐ, TCT nhà nước, DNNN xử lý nợ và tham gia tái cơ cấu DN cùng việc hoàn thiện cơ chế quản lý, tài chính tạo môi trường pháp lý đầu đủ cho công ty hoạt động một cách có hiệu quả với sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ hai, tổ chức phân loại DNNN để tập trung vào một số lĩnh vực then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ như: an ninh, quốc phòng; cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan toả lớn. Hoàn thành phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DNNN đến năm 2015. Xác định số lượng, danh sách cụ thể các DN mà Nhà nước nắm giữ 100%, nắm giữ trên 75%, nắm giữ từ 65% đến 75%, nắm giữ từ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ và các DN khác. Đối với các DN cần nắm giữ 100% vốn, sẽ tập trung đầu tư tăng cường năng lực, quản trị để DN hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với các DN còn lại sẽ cổ phần hóa với lộ trình phù hợp.
Về cơ chế cổ phần hoá, cần rà soát, sửa đổi nhằm tạo thuận lợi cho các DN trong quá trình cổ phần hoá rút ngắn thời gian tổ chức triển khai thực hiện. Mặt khác, tích cực thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia đồng hành cùng DN, góp phần thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả DN sau cổ phần hoá. Cụ thể như: điều chỉnh quy định chỉ thực hiện áp dụng kiểm toán nhà nước đối với các DN cần thiết theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ; quy định áp dụng cơ chế thuê đất đối với toàn bộ các DN cổ phần hoá, ngoại trừ các DN kinh doanh hạ tầng, bất động sản mới thực hiện cơ chế giao đất; điều chỉnh quy định xử lý rõ trách nhiệm đối với các khoản công nợ phải thu, phải trả chưa đối chiếu kịp thời tại thời điểm định giá; hướng dẫn rõ việc cổ phần hoá các TĐ, TCT có đơn vị sự nghiệp có thu (bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu).
Về cơ chế giải thể, phá sản, trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản và cơ chế giải thể DN theo hướng cho phép cơ quan quản lý nhà nước thực hiện phá sản bắt buộc đối với DN không đủ điều kiện tồn tại; Bổ sung quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu đối với trường hợp không thực hiện giải thể, phá sản những DN không đủ điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật; Đơn giản hoá thủ tục cùng việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến hoạt động giải thể, phá sản DN (như chủ sở hữu, toà án và cơ quan thi hành án).
Thứ ba, tái cơ cấu DN theo ngành, lĩnh vực không phân biệt cấp, cơ quan quản lý. Tái cơ cấu TĐ, TCT nhà nước một cách toàn diện từ mô hình tổ chức, quản lý, nguồn nhân lực, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư đến thị trường và sản phẩm. Nêu cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan được giao thực hiện quyền của chủ sở hữu. Chấn chỉnh, tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đầu tư theo quy hoạch phát triển kinh tế ngành gắn với phát triển kinh tế vùng lãnh thổ, tạo cơ sở vững chắc cho việc đổi mới, tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư của DN nói chung và DNNN nói riêng gắn với việc phát triển ngành kinh tế theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt. Gắn và làm rõ trách nhiệm của bộ trưởng các bộ quản lý ngành trong việc tổ chức xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế ngành đã được Chính phủ phê duyệt.
Thứ tư, thực hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành, lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành kinh doanh chính và vốn nhà nước ở công ty cổ phần mà Nhà nước không cần chi phối. Trường hợp các TĐ, TCT khó khăn trong việc thoái vốn thì giao SCIC hỗ trợ, mua lại các khoản đầu tư này để các TĐ, TCT tập trung vào các giải pháp khác để tái cơ cấu DN theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt.
Thứ năm, hình thành tổ chức để thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu DNNN; đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của DNNN. Đồng thời, tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý, giám sát tài chính DN nhằm hướng tới quản lý nhà nước chuyên sâu về tài chính DN.
Trên cơ sở phân công, phân cấp thực hiện quyền trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN theo Nghị định số 99/2012/NĐ-CP của Chính phủ, cần tăng cường trách nhiệm thực hiện giám sát của chủ sở hữu và cơ quan quản lý tài chính nhà nước đối với công tác quản lý vốn và tài sản tại DNNN. Thực hiện nghiêm chế tài đối với Hội đồng thành viên, Ban điều hành các TĐ kinh tế, TCT nhà nước, công ty mẹ trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trực tiếp trong công tác quản lý vốn, tài sản của DN. Trước mắt, tăng cường năng lực cho Cục Tài chính DN trực thuộc Bộ Tài chính để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ quản lý, giám sát DNNN theo phân công, phân cấp của Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ.
Thứ sáu, ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả và minh bạch, công khai trong hoạt động DNNN trên cơ sở yêu cầu DNNN công khai thông tin như các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thực hiện cơ chế đặt hàng của Nhà nước và hạch toán theo cơ chế thị trường đối với DN trong việc thực hiện chức năng hỗ trợ điều tiết vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.
Tái cơ cấu DNNN không chỉ cần thiết đối với bản thân khu vực DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh, mà còn trực tiếp phục vụ và hỗ trợ cho nhiệm vụ tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tái cơ cấu DNNN là cả một quá trình thực hiện và là chính sách mở, vì vậy cần phải được thực hiện một cách vững chắc với lộ trình phù hợp. Thực hiện tốt hệ thống giải pháp trên trong năm 2013 sẽ góp phần tạo tiền đề để tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN trong giai đoạn 2011-2015, định hướng đến 2020.