Thứ Tư | 20/02/2013 16:06

Rủi ro từ cho vay ký quỹ của các công ty chứng khoán

Việc các công ty chứng khoán cho vay ký quỹ đảm bảo bằng một mã cổ phiếu đang khiến thị trường chứng khoán Việt Nam đối mặt với rủi ro kép.
Cho vay ký quỹ chứng khoán là hình thức cấp tiền mặt cho một nhà đầu tư dựa trên tài sản đảm bảo là cổ phiếu, với một tỷ lệ tiền mặt/giá trị cổ phiếu tối thiểu nhất định.

Để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay margin, các tổ chức tài chính tại các thị trường chứng khoán phát triển thường yêu cầu tài sản cầm cố là một danh mục cổ phiếu gồm nhiều mã khác nhau. Trường hợp tài sản cầm cố là một mã cổ phiếu duy nhất sẽ bị coi là khoản vay thương mại, do các ngân hàng thương mai quản lý và chịu lãi suất cao hơn nhiều so với cho vay margin. Nhưng tại Việt Nam, việc công ty chứng khoán cấp margin cho một mã cổ phiếu hiện nay rất phổ biến.

Theo ông Hoàng Thạch Lân, Giám đốc Môi giới công ty chứng khoán MHBS, trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, cho vay margin được thực hiện miễn là nhà đầu tư có tài sản đảm bảo và việc cấp margin cho một cổ phiếu duy nhất là chuyện "rất thường xuyên" cho hầu hết mọi đối tượng nhà đầu tư.

Cách cho vay với tài sản đảm bảo là một mã cổ phiếu dẫn đến áp lực giảm giá kép mỗi khi có các thông tin tiêu cực liên quan đến cổ phiếu đó: vừa giảm giá do thông tin tiêu cực, vừa giảm giá do áp lực giải chấp. Một điểm đáng chú ý là các cổ phiếu này thường là những mã đầu cơ, có tính dẫn dắt thị trường, có thể khiến thị trường sụt giảm nhanh.

Một lãnh đạo của ngân hàng Tây Âu, chuyên cấp các khoản vay cho nhiều hãng môi giới chứng khoán ở Singapore, hiện đang xúc tiến các hoạt động tại Việt Nam nhận định "Nếu cấp margin cho một danh mục, hãng môi giới có thể bán cổ phiếu B để bù cho khoản giảm giá trị của cổ phiếu A, nhưng nếu cấp margin cho một mã duy nhất thì rất rủi ro".

Nói về cách cho vay này, lãnh đạo một công ty chứng khoán có tiếng về hoạt động cho vay margin, trụ sở ở Hà Nội thừa nhận, đúng là những khoản cho vay với một mã cổ phiếu duy nhất phải được xem là khoản vay thương mại, do ngân hàng quản lý và chịu các điều khoản khắt khe hơn. Đặc biệt đói với trường hợp lãnh đạo các công ty niêm yết dem cổ phiếu của công ty mình đi vay margin.

"Theo quy tắc quản trị rủi ro thì những cổ phiếu này phải được đem thế chấp cho ngân hàng, nhưng những lãnh đạo này bằng nhiều cách vẫn đem thế chấp cho công ty chứng khoán để vay margin. Không loại trừ khả năng họ vay margin để tác động đến giá cổ phiều của công ty mình", ông nói.

Cố vấn đầu tư của một quỹ Tây Âu đầu tư vào Việt Nam nhận xét "Ở thị trường chứng khoán Việt Nam, mọi người đi vay rất dễ" và trong một số trường hợp, lãnh đạo các tổ chức tài chính có động cơ cá nhân trong việc cho vay. Ông nói và nêu ra một số trường hợp đổ vỡ kinh điển trên thế giới do margin.

Đơn cử là Công ty dệt Polly Peck International (PPI) của Anh cùng với CEO Asil Nadir. Từng là một hiện tượng của thị trường chứng khoán Anh, Poll có thể dễ dàng vay nợ và gọi vốn. Tuy nhiên, đến năm 1988, những nghi vấn của cơ quan quản lý về việc sử dụng vốn cổ đông của Nadir bắt đầu xuất hiện. Các điều tra bí mật cho thấy Nadir đã chuyển vốn của công ty ra nước ngoài mà không bị các ngân hàng nghi ngờ hoặc gây khó dễ. Ngay sau đó, một công ty con của Nadir đã bị khám xét công khai.

Ngày 20/9/1990, các tổ chức cho vay đang giữ cổ phiếu PPI làm tài sản thế chấp cho các khoản vay margin của Nadir đã bán tháo 10 triệu cổ phiếu ra thị trường. Ngày 21/9/1990, một tổ chức khác bán tiếp 2,6 triệu cổ phiếu PPI, theo sau là hàng triệu cổ phiếu khác bị các tổ chức cho vay bán tháo. Khi đó, người ta mới phát hiện Madir đã đi vay margin của ít nhất 10 tổ chức cho vay và nói với từng tổ chức rằng, ông ta chỉ cầm cố cổ phiếu cho duy nhất tổ chức đó. Cổ phiếu của PPI từ một công ty có tiếng trên thị trường đã biến thành giấy lộn trong vòng vài giờ.

Trước tình hình này, ông Lân kiến nghị, đã đến lúc cần công bố tổng lượng margin của từng cổ phiếu tại các công ty chứng khoán hàng tuần. Nhà đầu tư và các công ty chứng khoán cần biết tỷ lệ cổ phiếu đang được cho vay margin/cổ phiếu hiện hành.

"Hiện nay, các công ty chứng khoán mới chỉ nắm khối lượng cổ phiếu margin tại công ty mình, trong khi không thể định lượng con số thực tế trên cả thị trường. Khi cổ phiếu có tin xấu, rủi ro cục bộ sẽ biến thành rủi ro hệ thống. Nếu có con số này, công ty chứng khoán có thể xác định mức độ rủi ro để quyết định có nên cấp margin cho cổ phiếu đó hay không", ông Lân nói.

Nguồn Đầu tư chứng khoán


Sự kiện