Quyết định 843/QĐ-TTg sẽ đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu
Trong đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, các cơ quan và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu, thành lập và phê duyệt điều lệ công ty VAMC. Những động thái này cho thấy, sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, NHNN và các bộ, ngành có liên quan.
VAMC ra đời là kết quả của quá trình chuẩn bị khá kỹ lưỡng với sự tham gia góp ý kiến của nhiều chuyên gia tài chính từ trong và ngoài nước. Trong đó, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là mục tiêu, phương thức hoạt động và cơ chế tài chính của VAMC. Vì thế, sự hình thành VAMC tạo ra kỳ vọng về triển vọng xử lý nợ xấu.
Liên quan đến khu vực ngân hàng, NHNN đã triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp bao gồm thanh tra, giám sát và kiểm toán độc lập theo chỉ định đối với các ngân hàng yếu kém, được qui định tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 phê duyệt Đề án Tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015.
Về cơ bản, NHNN đã đánh giá được tình hình của các TCTD tại Việt Nam, đã kiểm soát được những TCTD yếu kém thông qua các biện pháp nghiệp vụ, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt theo đúng lộ trình và mục tiêu đã đề ra. Trên cơ sở đó, NHNN đã trình Thủ tướng 8 phương án tái cơ cấu đối với 9 ngân hàng yếu kém. Trong đó, ba ngân hàng đã được hợp nhất; một ngân hàng đã được sáp nhập, một ngân hàng chuẩn bị hợp nhất, ba ngân hàng đã được chấp thuận phương án tự cơ cấu lại. Đối với ngân hàng yếu kém còn lại, NHNN đang thẩm định phương án do ngân hàng này tự xây dựng.
Sự xuất hiện của VAMC cũng tăng thêm sức ép lên hệ thống TCTD vốn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí là những áp lực mâu thuẫn nhau như, các NHTM phải hạ lãi suất cho vay và tìm kiếm khách hàng vay vốn, trong khi nợ xấu còn cao, rủi ro nợ xấu dễ xảy ra nếu hạ chuẩn tín dụng hoặc thiếu kiểm soát khách hàng vay vốn.
Đề án xử lý nợ xấu cũng qui định rõ, TCTD phải thực hiện nghiêm túc 10 biện pháp xử lý nợ xấu đã được phê duyệt, và không được che giấu nợ xấu. Trường hợp TCTD cố tình che giấu nợ xấu và không bán nợ cho VAMC, NHNN sẽ thanh tra toàn diện, yêu cầu kiểm toán bắt buộc theo những nội dung do NHNN yêu cầu; có thể ra quyết định hạn chế việc mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động; v.v.
Về mặt kỹ thuật, phương án mua nợ theo giá sổ sách sẽ giúp các TCTD cải thiện phần nào bảng cân đối kế toán để mở rộng tín dụng, đồng thời có thể nhận thêm nguồn vốn từ bên ngoài, kể cả từ các đối tác nước ngoài. Điều này cho thấy, VAMC hình thành đồng thời với Đề án xử lý nợ xấu của các TCTD với chế tài chặt chẽ và ràng buộc trách nhiệm khi chuyển nợ xấu sang VAMC. Sự hiện diện của VAMC sẽ buộc các TCTD phải chủ động trong vấn đề xử lý nợ xấu, nhưng không nên lệ thuộc vào VAMC. Vì thế, từng TCTD sẽ phải cân nhắc, lựa chọn giải pháp phù hợp và hiệu quả nhất để giảm tỉ lệ nợ xấu.
Nhìn chung, đa số các TCTD đều có đủ năng lực tài chính để giải quyết tình trạng nợ xấu mà không cần sự hỗ trợ của VAMC cũng như những biện pháp can thiệp khác. Hơn nữa, Đề án tập trung xử lý nợ xấu của các TCTD có tỷ lệ nợ xấu trên 3% tổng dư nợ và nợ xấu có tài sản bảo đảm, trong đó ưu tiên xử lý nợ xấu có tài sản bảo đảm là bất động sản. Vì thế, VAMC sẽ lựa chọn mua những khoản nợ có khả năng xử lý được nhanh chóng, có thể sẽ thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư từ trong và ngoài nước.
Điểm tích cực của VAMC thể hiện qua cơ chế mua nợ của khu vực doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là không liên quan đến vốn điều lệ, tạo ra sự ràng buộc chặt chẽ hơn về trách nhiệm của các doanh nghiệp và TCTD đối với nguồn vốn đầu tư, tách dần sự lệ thuộc của khu vực DNNN vào nguồn vốn đầu tư nhà nước, mặc dù trước mắt vẫn cần gói hỗ trợ cần thiết từ ngân sách nhà nước để thúc đẩy tốc độ phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Áp lực lên VAMC cũng giảm nhẹ do các NHTM nhà nước được phép bán các khoản nợ xấu của DNNN để xử lý trong quá trình sắp xếp, tái cơ cấu DNNN cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính (DATC).
Với sự hiện diện của VAMC, những TCTD có tỉ trọng cho vay quá cao so với nguồn vốn huy động sẽ phải chuyển một phần nợ xấu sang công ty này, giúp doanh nghiệp tiếp cận được vốn thuận lợi hơn. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh cho vay vào thời điểm này phải được tính toán và kiểm soát chặt chẽ để giảm dần tỉ lệ nợ xấu, đồng thời phải ngăn ngừa được nguy cơ phát sinh nợ xấu.
Đối với các cơ quan chức năng, điều quan trọng là cần tiếp tục điều chỉnh môi trường pháp lý cho phù hợp với thực tế hiện nay, làm tăng thêm tính linh hoạt của VAMC, như xác định rõ mục tiêu cần đạt được và cơ chế hoạt động, hoàn thiện cơ chế, công cụ đặc biệt để nhanh chóng bán tài sản, phát triển một thị trường mua bán nợ hiệu quả với khung pháp lý ổn định và hệ thống đánh giá độc lập đối với các khoản nợ, tài sản đảm bảo kèm theo và năng lực trả nợ của khách hàng để thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư, quyết liệt hơn trong chính sách tài khóa nhằm giảm gánh nặng nợ công và ổn định nền tảng kinh tế vĩ mô.
Như vậy, bên cạnh chức năng mua bán nợ, VAMC còn có tác dụng gây áp lực buộc các TCTD phải tìm mọi cách để giảm tỉ lệ nợ xấu trong bối cảnh qui mô, đặc điểm nợ xấu tại các TCTD hiện nay phức tạp hơn nhiều so với những đợt tái cơ cấu trước đây, do Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Nguồn SBV