"Quyền trượng" FSC và lối ra cho ngành gỗ
Mới đây, việc di dời và đốn hạ 16 cây xanh trên một con đường ở trung tâm TP.HCM để quy hoạch xây dựng các công trình hiện đại đã làm một bộ phận người dân bức xúc. Thế nhưng, con số này chỉ như muối bỏ bể nếu so với hàng chục triệu hecta rừng, tương đương 43% diện tích rừng, mà Việt Nam đã mất trong 40 năm qua.
Vốn được mệnh danh là quốc gia rừng vàng biển bạc, nhưng Việt Nam đang phải làm quen với một khái niệm không hề mong muốn: “rừng lặng”. Cụm từ này được dùng khi các nhà bảo tồn quốc tế nói về những cánh rừng bị săn bắt đến tận diệt, không còn nghe được tiếng chim, tiếng thú. Còn với hệ thực vật, những cánh rừng ngã xuống do khai thác trái phép đang đem đến nhiều vấn nạn không hồi kết như sạt lở, lũ lụt và ô nhiễm môi trường.
Suy cho cùng, có cầu mới có cung. Ngành gỗ chưa bao giờ hết nóng khi đã đem về 6,9 tỉ USD trong năm qua, giúp Việt Nam xếp thứ 4 trong những nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, nếu sản phẩm gỗ các doanh nghiệp trong nước làm ra được bán tốt trên thị trường nội địa do người tiêu dùng dễ tính chỉ quan tâm đến giá cả và thiết kế bắt mắt, thì người tiêu dùng ở những thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ hay EU lại khắt khe hơn. Họ rất coi trọng nguồn gốc xuất xứ của gỗ nguyên liệu trong quyết định mua hàng. Ở Anh và Hà Lan, đồ gỗ làm từ nguyên liệu không có xuất xứ hợp pháp đều bị tẩy chay vì người tiêu dùng tin rằng việc sử dụng chúng là gián tiếp hủy hoại môi trường. Mỹ cũng không ngoại lệ.
Làm cách nào để xác minh nguồn gốc gỗ dùng trong sản xuất ở một nước bên kia bờ đại dương? Một bên thứ 3 độc lập với những quy định chặt chẽ trong quy trình khai thác và sản xuất đồ gỗ chính là đáp án cho bài toán này.
FSC là chứng chỉ được cấp bởi Hội đồng Quản trị rừng thế giới, đi cùng với chứng chỉ CoC về kiểm định chuỗi hành trình sản phẩm hiện là “dấu bảo chứng” được công nhận rộng rãi nhất trên toàn cầu đối với những sản phẩm xuất xứ từ gỗ. Những công ty muốn đạt được chứng chỉ này phải đáp ứng được 10 nguyên tắc và 56 chỉ tiêu của FSC. Trong đó có những tiêu chí cực kỳ nghiêm ngặt mà người trồng rừng chưa từng được tiếp cận trước đây, như không được sử dụng hóa chất khi trồng cây, cấm săn bắt động vật hoang dã ở rừng FSC, không được đốt thực bì cây, không dùng máy cày, san ủi làm nghèo dinh dưỡng trong đất...
Rõ ràng, quá trình đầu tư cho tiêu chuẩn FSC tốn kém nhiều công sức và thời gian, nhưng đây vẫn là “giấc mơ chung” của các doanh nghiệp ngành gỗ. Bởi một khi được cấp chứng chỉ, sản phẩm gỗ như có được “visa” đến với những thị trường khó tính nhưng béo bở nhất thế giới.
Công ty Cổ phần Lâm đặc sản Xuất khẩu Quảng Nam (Forexco) là một ví dụ. Trước năm 2000, ý thức được tác hại của việc khai thác gỗ từ rừng tự nhiên, Công ty đã chuyển hướng sang khai thác gỗ từ rừng trồng. Năm 2008, Forexco là một trong những công ty nội địa đầu tiên theo đuổi chứng chỉ FSC, theo sau những công ty liên doanh trước đó. Bước đầu, Công ty đã đầu tư trồng 1.400 ha rừng theo tiêu chuẩn FSC, rồi mở rộng đến 1.600 ha tính đến hiện tại. Để thay đổi được thói quen trồng cây theo những tập quán cũ, ngoài việc cung cấp cây giống và chi phí trồng cây, Forexco còn tập huấn kiến thức và kỹ thuật cho người trồng.
Ðến năm 2012, chứng nhận FSC và CoC mà Forexco nhận được đã mở ra cơ hội để 4 nhà máy của họ chủ động thực hiện mô hình sản xuất khép kín từ trồng rừng - khai thác - sản xuất - xuất khẩu sản phẩm theo một tiêu chuẩn chung. Những cánh rừng FSC đi vào khai thác đã giúp Công ty tự chủ được nguồn nguyên liệu, giảm dần nguyên liệu gỗ FSC đắt tiền nhập khẩu từ Malaysia và Nam Mỹ, vốn cao hơn 30% so với giá gỗ trong nước. Trong năm 2015, toàn bộ sản lượng hàng xuất khẩu của Forexco làm từ 100% gỗ rừng trồng trong nước, trong đó sản phẩm từ gỗ rừng trồng có chứng chỉ FSC chiếm hơn 50% sản lượng.
Để mở rộng diện tích rừng theo tiêu chuẩn FSC, mô hình được các công ty gỗ thực hiện là hợp tác với các hộ nông dân trồng rừng nhỏ lẻ. Theo mô hình này, người trồng rừng được bao tiêu gỗ đầu ra với giá cao hơn, môi trường rừng được cải thiện, còn doanh nghiệp thì chủ động hơn về nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Những cánh rừng FSC có thời gian trồng dài hơn gấp rưỡi so với rừng thường, nhưng trung bình mỗi ha rừng đạt chuẩn được bán với giá 150-200 triệu đồng, gấp 2-3 lần so với rừng trồng theo kiểu cũ. Do đó, ngày càng có nhiều hộ nông dân tỏ ra hào hứng hơn trong việc trồng rừng theo tiêu chuẩn FSC để cải thiện thu nhập, mặc dù phải học hỏi từ đầu các quy trình trồng và chăm sóc rừng.
Theo thống kê của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), một trong những tổ chức hỗ trợ triển khai chứng chỉ FSC tại Việt Nam, nước ta đã có 13 doanh nghiệp và 2 dự án theo đuổi thành công chứng chỉ này, nâng tổng diện tích rừng đạt tiêu chuẩn FSC lên 184.718 ha. Tuy chỉ mới chiếm 1,4% trong tổng diện tích rừng cả nước, nhưng đây sẽ là hướng phát triển phù hợp với chiến lược phát triển lâm nghiệp đến năm 2020, khi rừng trồng theo tiêu chuẩn FSC phải chiếm 30% trong tổng diện tích rừng.
Trong kinh doanh, những người đi tiên phong luôn là người đặt ra luật chơi cho ngành. Các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ đang trầy trật tìm đầu ra cho sản phẩm, sẽ có thể nối gót những doanh nghiệp đi trước áp dụng tiêu chuẩn FSC vào sản xuất. Từ đó, từng bước áp dụng cho vùng nguyên liệu để mở rộng thị trường tiêu thụ. Những hiệu quả tích cực về môi trường và xã hội mà FSC đem lại có thể không thấy được trước mắt, nhưng sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Lan Anh