Thứ Tư | 22/04/2015 07:43

Phát hiện nhiều sai phạm tại VietinBank

Sai phạm phát hiện thời kỳ 2009 - 2012 tại VietinBank gồm huy động lãi suất vượt trần, vi phạm mua sắm tài sản, sử dụng quỹ mang tính hệ thống.

Ngày 21/4, Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank).

Việc thanh tra này tập trung vào thời kỳ 2009 - 2012 với 3 nhóm nội dung: chấp hành chính sách pháp luật trong hoạt động tín dụng; hoạt động đầu tư tài chính và mua sắm trang thiết bị, tài sản, thuê tài sản và trích lập, sử dụng các quỹ của VietinBank.

Thứ nhất, hoạt động tín dụng để xảy ra nhiều vi phạm cả trong huy động vốn và trong hoạt động cho vay, có một số vụ việc vi phạm nghiêm trọng phải chuyển cơ quan điều tra

Huy động lãi suất vượt trần: Cơ cấu nguồn vôn cho vay trung, dài hạn mất cân đối, VietinBank phải sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để bù đắp cho vay trung, dài hạn. Một số chi nhánh huy động tiền gửi với lãi suất vượt trần 14% theo quy định của NHNNVN (tập trung vào các thời điểm từ tháng 3/2011 đến tháng 9/2011); chi hoa hồng môi giới, chi tiếp thị bằng tiền mặt không đúng quy định, thực chất là lách quy định về trần lãi suất để chi tăng lãi suất tiền gửi cho khách hàng.

Hoạt động cho vay có sai phạm ở hầu hết các khâu của quá trình cho vay, cụ thể:

Trong thấm định, phê duyệt cho vay, VietinBank đã thấm định, xác định thời hạn cho vay thiếu cơ sớ, không phân tích chi tiết nhu cầu sử dụng vốn đối với từng phương án, đối tượng kinh doanh; thấm định, đề xuất giới hạn tín dụng chưa phù hợp, có trường hợp thấm định, phê duyệt cấp giới hạn tín dụng ngắn hạn cho dự án đầu tư dài hạn; thẩm định, phê duyệt cấp tín dụng khi chưa đáp ứng điều kiện về hồ sơ, về điều kiện tài chính-'củạidự án, như: xác định giá trị tông mức đầu tư và tỷ lệ, cơ cấu nguồn vốn, giới hạn tín dụng cho vay; không đánh giá được tình hình hoạt động, tình hình tài chính của đơn vị vay vốn; thấm định xác định nguồn trả nợ của khách hàng không chính xác; cho vay đối với khách hàng có tình hình tài chính khó khăn, khả năng tài chính suy giảm, không đủ khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết.

Trong khâu giải ngân: nhiều trường hợp chứng từ giải ngân không đảm bảo theo quy định (hóa đơn mua hàng không khớp với phiếu nhập kho; không có hóa đơn hoặc thiếu hóa đơn so với quy định); giải ngân không đúng mục đích đối với khoản vay; giải ngân để trả nợ cũ; giải ngân khi chưa đáp ứng điều kiện về tài sản đảm bảo và vốn tự có tham gia dự án theo như phê duyệt. ..

Về tài sản đảm bảo: chưa định giá định kỳ, định giá lại theo quy định đối với một số tài Sản bảo đảm; chưa đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản bảo đảm; xác định giá trị cho vay so với tỷ lệ tài sản bảo đảm chưa đúng quy định; định giá tài sản không có cơ sở, chưa thực hiện đúng quy định; nhận thế chấp tài Sản bảo đám chưa đủ điều kiện, thủ tục pháp lý; chưa kiểm tra, kiểm soát được việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ hàng hóa; chưa mua bảo hiểm máy móc thiết bị; không bổ sung tài đảm bảo theo yêu cầu; giảm tài sản bảo đảm khi chưa tất toán khoản vày bất hợp lý...

+ Trong cơ cấu nợ và phân loại nợ: việc phân loại nợ của VietinBank không đúng quy định, dẫn đến việc phân loại nợ thiếu chính xác: phân loại nhóm l nhưng thực chất là nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 hoặc cá biệt lên đến nhóm 5; cơ cấu nợ, phân loại nợ không đúng thực tế; kéo dài thời gian giải ngân và thời gian ân hạn; cơ cấu lại nợ cho khoản vay trong khi tình hình sản xuất kinh doanh đơn vị vay vốn xu hướng kinh doanh không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ...

Thứ hai, vi phạm trong hoạt động đầu tư tài chính

Việc sử dụng vốn TPQT không đúng cam kết theo cáo bạch, huy động không đạt được mục tiêu của đề án, hiệu quả sử dụng vốn thấp; việc đầu tư trái phiếu vào các doanh nghiệp của VietinBank còn có vi phạm ở các khâu, như: thẩm định thiếu chặt chẽ, chưa chính xác dẫn đến sử dụng không hiệu quả vốn trái phiếu; có trường hợp doanh nghiệp không đủ điều kiện phát hành nhưng vẫn được VietinBank đầu tư, giải ngân thiếu chứng từ, sử dụng vốn sai mục đích, hay tài sản đảm bảo chưa đủ điều kiện đăng ký giao dịch bảo đảm, định giá chưa đủ cơ sở, có trường hợp thiếu tài sản đảm bảo, không đánh giá lại tài sản đảm bảo theo quy định; việc giám sát không thường xuyên, thiếu chặt chẽ.

Nguồn NCDT/Thanh Tra