Phát hành thẻ ngân hàng cho người từ 11 tuổi
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành dự thảo thông tư về hoạt động thẻ ngân hàng lấy ý kiến đóng góp.
Dự thảo Thông tư mở rộng hơn đối tượng được sử dụng thẻ so với Quyết định 20 nhằm thúc đẩy thanh toán thẻ. Theo đó, đối với chủ thẻ chính là cá nhân phải đáp ứng điều kiện là từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật; hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong việc sử dụng thẻ.
Chủ thẻ phụ phải đáp ứng một số điều kiện là từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật; hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong việc sử dụng thẻ, nếu không có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong việc sử dụng thẻ thì phải được người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó chấp thuận bằng văn bản về việc sử dụng thẻ; hoặc từ đủ 11 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, được người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó chấp thuận bằng văn bản về việc sử dụng thẻ;
Ngoài ra, chủ thẻ phụ cần được chủ thẻ chính cam kết bằng văn bản thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ phát sinh liên quan đến việc sử dụng thẻ cùng với các điều kiện khác của tổ chức phát hành thẻ.
Các trường hợp phát hành thẻ phụ cho người từ đủ 11 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét cụ thể và chấp thuận cho tổ chức phát hành thẻ trước khi thực hiện.
Dự thảo thông tư quy định về hoạt động phát hành thẻ, thanh toán thẻ, chuyển mạch thẻ, bù trừ điện tử giao dịch thẻ và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ của các tổ chức tại Việt Nam; việc sử dụng thẻ trên lãnh thổ Việt Nam; việc sử dụng thẻ ở ngoài lãnh thổ Việt Nam của chủ thẻ là khách hàng của tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam.
Dự thảo Thông tư đã chỉnh sửa một số từ ngữ về thẻ ngân hàng (như thẻ nội địa, thẻ quốc tế, thẻ ghi nợ), chủ thẻ, tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ, tổ chức chuyển mạch thẻ, tổ chức bù trừ điện tử giao dịch thẻ, máy giao dịch tự động, hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ, hợp đồng thanh toán thẻ,… phù hợp với quy định tại các văn bản pháp lý làm căn cứ ban hành và thực tiễn.
Đồng thời, bổ sung thêm các khái niệm về tổ chức thẻ quốc tế, giao dịch gian lận, giả mạo, điểm ứng tiền mặt, thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán, đại lý phân phối thẻ,...
Dự thảo Thông tư sửa đổi quy định tại Quyết định 20 về đồng tiền thanh toán theo hướng quy định rõ hơn, phù hợp với thực tiễn và cơ sở hiện hành. Theo đó, trên lãnh thổ Việt Nam, đối với các giao dịch thẻ khác (ngoài giao dịch rút tiền mặt tại các điểm ứng tiền mặt) đồng tiền giao dịch là đồng Việt Nam.
Trong trường hợp các tổ chức thanh toán thẻ tại Việt Nam cung cấp dịch vụ chuyển đổi tiền tệ linh hoạt cho các chủ thẻ quốc tế của tổ chức phát hành thẻ nước ngoài hoặc các trường hợp được sử dụng ngoại hối để giao dịch theo quy định hiện hành của pháp luật thì đồng tiền giao dịch là đồng Việt Nam và ngoại tệ tương đương. Các đơn vị chấp nhận thẻ chỉ được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ tổ chức thanh toán thẻ.
Về thông tin trên thẻ, dự thảo thông tư yêu cầu trên thẻ phải có thông tin về tổ chức phát hành, tên hoặc nhãn hiệu thương mại của thẻ, số thẻ, thời hạn hiệu lực, họ tên chủ thẻ.
Tính đến cuối tháng 10/2014, trên thị trường đã có 50 tổ chức phát hành thẻ với số lượng trên 77,3 triệu thẻ đã được phát hành, gần 15.900 máy ATM và trên 164.000 POS/EDC đã được lắp đặt và sử dụng. |
Dự thảo bổ sung (hợp nhất quy định về quy trình thanh toán thẻ ở văn bản khác trước đây và có sửa đổi) các vấn đề cơ bản nhất mà các tổ chức tham gia quy trình thanh toán thẻ cần thực hiện thống nhất, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn phát triển của dịch vụ thanh toán thẻ.
Dự thảo yêu cầu tổ chức thanh toán thẻ thực hiện yêu cầu tra soát, khiếu nại của chủ thẻ trong thời hạn 5 ngày làm việc đối với giao dịch nội địa tại ATM và 10 ngày làm việc đối với giao dịch nội địa tại POS/EDC/mPOS của thẻ do tổ chức thanh toán thẻ phát hành; 7 ngày làm việc đối với giao dịch nội địa tại ATM và 15 ngày làm việc đối với giao dịch nội địa tại POS/EDC/mPOS của thẻ do tổ chức phát hành thẻ khác phát hành;
Hoặc theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế nhưng không quá 45 ngày đối với giao dịch quốc tế kể từ ngày nhận được yêu cầu từ tổ chức phát hành thẻ. Nếu tổ chức thanh toán thẻ không đáp ứng hoặc đáp ứng không đúng thời hạn quy định tại điểm này thì kể từ ngày hết hạn trả lời, thì phải hoàn toàn chịu mọi chi phí phát sinh liên quan đến giao dịch thẻ được yêu cầu tra soát đó.
Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng; Điều 6 Quyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 08/10/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Điều 3 Thông tư số 23/2011/TT-NHNN ngày 31/8/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính lĩnh vực hoạt động thanh toán và các lĩnh vực khác theo Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hết hiệu lực kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực.
Nguồn DVO/SBV