Thứ Hai | 13/05/2013 07:54

"Ngân hàng chỉ được hưởng chênh lệch lãi suất khoảng 2%"

Theo Phó viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng, trong vòng 10 năm qua, chênh lệch lãi suất thời điểm cao nhất cũng chỉ 3,5%.
Tuần qua, nhiều ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất huy động xuống 6%/năm, trong khi mặt bằng lãi suất cho vay bình quân vẫn là 12-13%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, ngân hàng đang hưởng chênh lệch lãi suất quá cao.

Tuy nhiên, dưới góc độ là chuyên gia nghiên cứu độc lập, TS. Nguyễn Đức Trung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng cho biết, tính trung bình lãi suất huy động và cho vay, trong vòng 10 năm qua, chênh lệch lãi suất thời điểm cao nhất cũng chỉ 3,5%. Riêng trong năm 2012, mức chênh lệch bình quân là gần 2,2%.

"Tại thời điểm hiện tại, mức chênh lệch trung bình cũng chỉ khoảng 2%. Không có chuyện ngân hàng được hưởng mức chênh lệch "khủng" 5-7%, như dư luận đồn đoán. Nếu chênh lệch cao như vậy, cả xã hội đã đổ xô đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng", ông Trung cho biết.

Về động thái giảm lãi suất vừa qua, ông Trung nhận định, lãi suất dưới 7%/năm chỉ áp dụng với kỳ hạn ngắn 1-2 tháng. Còn với kỳ hạn từ 3 đến 12 tháng, đa phần các ngân hàng vẫn áp dụng lãi suất 7%-7,5%/năm. Lãi suất này vẫn cao hơn nhiều so với lạm phát dự kiến, đảm bảo lãi suất thực dương, do đó vẫn hấp dẫn người gửi tiền.

Ông Trung cho rằng, trong bối cảnh đầu tư chứng khoán, bất động sản đầy rủi ro như hiện nay, thì cũng chẳng có kênh đầu tư nào hấp dẫn và an toàn hơn là gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất được dự báo có xu hướng hạ, người dân nên chọn hình thức gửi tiết kiệm trung và dài hạn để quyền lợi được bảo đảm.

Theo ông, lãi suất chỉ là một trong số nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tín dụng. Nghiên cứu các mô hình kinh tế đã chỉ ra một thực tế thú vị là, lãi suất chỉ tác động 3 - 4% trong tổng số 100% ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng. Với ngân hàng, yếu tố quyết định tín dụng không phải lãi suất, mà quan trọng hơn là tài sản đảm bảo. Còn với doanh nghiệp, yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới quyết định vay vốn của họ là tổng cầu có tăng không, hàng hóa có tiêu thụ được không…

Ông dẫn số liệu nghiên cứu cho thấy, thực tế giai đoạn 2008-2012, khi lãi suất cao, doanh nghiệp vẫn ồ ạt vay vốn, nếu tiêu thụ được sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, còn khi lãi suất thấp, doanh nghiệp vẫn không vay vì hàng tồn kho lớn…

Kết quả khảo sát 479 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán (không tính doanh nghiệp bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng) của Học viện Ngân hàng cũng cho thấy, lý do mà các doanh nghiệp không muốn vay vốn là hàng tồn kho cao, sản phẩm không tiêu thụ được, chứ không phải vì lãi suất.

70% doanh nghiệp được hỏi đều cho rằng, họ có thể sống tốt với lãi suất cho vay 12-15%/năm. Rõ ràng, tăng trưởng tín dụng kém nhạy cảm với lãi suất.

Nguồn Đầu tư


Sự kiện