Thứ Ba | 12/06/2012 21:26

"Mỗi tháng bơm ra 50 nghìn tỷ rất dễ gây lạm phát"

T.S Phạm Thế Anh cho rằng nếu mỗi tháng phải bơm ra 50 nghìn tỷ đồng thì các doanh nghiệp sẽ không hấp thụ được, và rất dễ gây lạm phát.
Một loạt chính sách tiền tệ mới được ban hành. Thị trường đang kỳ vọng những biến chuyển từ những quyết sách mới. Ông Phạm Thế Anh, Quyền viện trưởng viện Chính sách công & Quản lý - ĐH Kinh tế Quốc dân trao đổi về những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới thị trường trong thời gian tới.

NHNN đã có quyết định hạ lãi suất 2 điểm phần trăm nhưng cho phép thỏa thuận lãi suất kỳ hạn trên 12 tháng. Là chuyên gia ông đánh giá thế nào về mức giảm cũng như quyết định cho thỏa thuận lãi suất của NHNN?

Trong ngắn hạn, lãi suất được quyết định bởi 2 yếu tố là lạm phát và thanh khoản. Yếu tố lạm phát lại gồm 2 thành phần là lạm phát hiện tại và lạm phát kỳ vọng. Hiện tại, lạm phát so với cùng kì năm trước (YoY) đến cuối tháng 5 chỉ còn 8,34%; còn lạm phát kỳ vọng trong những tháng tới thậm chí còn thấp hơn chỉ khoảng 6-7%.

NHNN bơm ra thị trường xấp xỉ 180 ngàn tỷ thông qua mua ngoại tệ và mới chỉ hút về một phần thông qua tín phiếu và thị trường mở đã giúp thanh khoản được cải thiện. Như vậy cả lạm phát và thanh khoản đều ủng hộ cho quyết định hạ trần lãi suất.

Việc lựa chọn một mức trần lãi suất nào đó để áp với các khoản  tiền gửi hạn dài là rủi ro cho ngân hàng nếu như lạm phát cuối năm tiếp tục giảm. Ngược lại người gửi tiền sẽ chịu rủi ro nếu như lạm phát cuối năm tăng mạnh.

Phó Thống đốc cũng cho biết lãi suất sẽ ổn định ở 9%/năm từ bây giờ đến hết năm. Ông có chia sẻ gì về điều này?

Theo tôi thông điệp của NHNN nhằm kích thích tâm lý vay vốn của các doanh nghiệp. NHNN phát đi tín hiệu lãi suất sẽ không giảm tiếp từ giờ đến cuối năm, các doanh nghiệp có ý định vay vốn sẽ sẵn sàng tiếp cận nguồn vốn vay này hơn để sản xuất kinh doanh thay vì chờ đợi lãi suất tiếp tục giảm.

Tuy nhiên việc cam kết này cũng có rủi ro là nếu lạm phát tiếp tục giảm xuống thấp mà NHNN lại vẫn tiếp tục giữ lãi suất huy động ở mức hiện tại sẽ không hợp lý, nhưng nếu giảm lãi suất theo lạm phát thì lại trái với cam kết đã đưa ra. Điều đó có thể làm giảm độ tin cậy và hiệu quả của những công bố chính sách trong tương lai.

Dù sao thì lãi suất huy động cũng đã giảm, theo ông điều này sẽ có tác động thế nào tới tỷ giá trong thời gian tới?

Theo lý thuyết điều kiện ngang bằng lãi suất thì lãi suất nội tệ sẽ xấp xỉ bằng với lãi suất ngoại tệ cộng với kì vọng mất giá của đồng nội tệ. Do vậy, khi lãi suất VND hạ sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với ngoại tệ.

Tuy nhiên, với mức chênh lệch lãi suất khoảng 6-7% cùng với tuyên bố tỷ giá không tăng quá 3% đến cuối năm của NHNN thì giữ VND vẫn hấp dẫn hơn. Cùng với đó là tỷ giá khó có biến động nhiều trong ngắn hạn do kinh tế đang suy giảm, nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất lẫn hàng hóa xa xỉ giảm mạnh, dự trữ ngoại hối tăng đáng kể.

Có thực tế là tính đến hết tháng 5 thì tổng phương tiện thanh toán tăng 4,47% nhưng tín dụng chưa có tăng trưởng. Điều này có phải là bất thường?

Cung tiền tăng gần 5% trong khi tín dụng không tăng trưởng cho thấy tiền được bơm ra nhưng không đến được với doanh nghiệp, điều này khá nguy hiểm. Cung tiền tăng chủ yếu là NHNN mua vào ngoại tệ. Một phần tiền bơm ra NHNN đã hút về qua phát hành tín phiếu và đấu thầu thị trường mở.

Còn một lượng lớn tiền, ước tính 80 nghìn tỷ đồng, được các ngân hàng thương mại sử dụng để mua trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Lượng tiền đó nếu ở lại trong NHTM sẽ tạo ra áp lực phải cho vay ra, buộc các ngân hàng hạ lãi suất để cạnh tranh.

Muốn đưa tiền cho doanh nghiệp thì phải tăng trưởng tín dụng. Nếu để tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 12% thì những tháng còn lại trung bình hệ thống ngân hàng phải bơm ra nền kinh tế khoảng 50 ngàn tỷ đồng. Ông có bình luận gì về con số này?

50 ngàn tỷ/ tháng là quá nhiều và các doanh nghiệp sẽ không thể hấp thụ được. Chính sách điều hành có độ trễ nên nếu bơm vốn ồ ạt thì một thời gian sau lạm phát sẽ trở lại. Chúng ta đã có kinh nghiệm từ gói kích cầu trước đây và tôi nghĩ rằng NHNN sẽ không thực hiện bơm tiền như vậy.

NHNN chỉ nên kiểm soát tăng trưởng cung tiền hằng năm còn tăng trưởng tín dụng thì nên để ngân hàng thương mại tự quyết. Thông thường thì tăng trưởng cung tiền hằng năm nên xấp xỉ bằng với tăng trưởng GDP (%) + lạm phát (%). Nếu tăng trưởng dự kiến là 5%, lạm phát kỳ vọng là 7% thì tăng trưởng cung tiền M2 không nên vượt quá xa 12%.

Nguồn CafeF


Sự kiện