thanhnien.vn

 
Vân Nguyễn Thứ Hai | 18/06/2018 17:02

Lao động Việt ở nước ngoài: Cần cơ chế để “ba bên đều thắng”

76% người lao động Việt làm việc ở Malaysia,Thái Lan phải chịu một số hình thức vi phạm quyền lao động và khó tiếp cận các biện pháp khắc phục pháp lý.

Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật 72), có hiệu lực năm 2007, đang trong quá trình rà soát để sửa đổi bổ sung. Công đoàn đề xuất: Cần có cơ chế 3 bên gồm Chính phủ, công đoàn và chủ sử dụng lao động, trong quản trị lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, điều quan trọng là phải sửa đổi, bổ sung Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp nhằm tăng cường vai trò của công đoàn với tư cách là tổ chứ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng như vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách và chương trình.

Ông Chang-Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Việt Nam, nói rằng "Các dòng di cư cần được quản lý thông qua sự đồng thuận ba bên bao gồm Chính phủ, công đoàn và người sử dụng lao động tại cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu".

Giám đốc ILO Việt Nam nói: “Công đoàn đại diện cho tiếng nói của người lao động trong cơ cấu ba bên của ILO. Nếu không có tiếng nói mạnh mẽ này thì việc ‘ba bên đều thắng’, nghĩa là di cư mang lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước, không thể thực hiện được”.

Số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy, có khoảng 134.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong năm 2017. Đài Loan (Trung Quốc), Nhật bản, Hàn Quốc, Ả Rập Xê-Út và Malaysia là những điểm đến hàng đầu của lao động Việt Nam. Số lượng lao động nữ tăng liên tục hàng năm, nhiều người trong số này làm việc trong lĩnh vực giúp việc gia đình, tại các quốc gia trong đó có Ả Rập Xê Út.

Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây của ILO cho biết 76 % người lao động Việt Nam sang làm việc ở Malaysia và Thái Lan phải chịu một số hình thức vi phạm quyền lao động và tiếp cận rất hạn chế với các biện pháp khắc phục pháp lý trong thời gian làm việc ở đó. Rất ít người tham gia vào các tổ chức công đoàn tại nơi đến làm việc.

So với lao động di cư từ Campuchia, Myanmar và CHDCND Lào, người lao động Việt Nam chịu chi phí di cư cao nhất. Phải trả nhiều tiền hơn để đi làm việc ở nước ngoài và phải vay mượn để thanh toán cho những khoản chi phí đó làm cho người lao động dễ bị rơi vào tình trạng lệ thuộc vì nần và buôn bán người.

Để bảo vệ quyền của lao động di cư, ông Michael R. DiGregorio, Đại diện Quỹ Châu Á ở Việt Nam, nói rằng: “Cán bộ công đoàn cơ sở của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc truyền thông tại cộng đồng và tư vấn về di cư an toàn cho người lao động di cư tiềm năng và thành viên trong gia đình họ. Nhưng theo ông, “các cán bộ này thường thiếu thông tin và kỹ năng để hỗ trợ, tư vấn hiệu quả cho người lao động ở cộng đồng trước khi xuất cảnh”.

Liên quan đến nội dung này, ông Trần Văn Lý, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, hôm 18.6 cho biết, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mong muốn đảm bảo tuyển dụng công bằng và việc làm bền vững cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và hỗ trợ họ khi về nước.

Ở cấp quốc gia, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã tăng cường tham gia vào các cuộc trao đổi ba bên về chính sách di cư lao động và xây dựng luật. Ngoài báo cáo rà soát và khuyến nghị về Luật 72, công đoàn cũng tham gia vào việc xây dựng các quy định liên quan đến cơ chế khiếu nại cho người lao động, hợp đồng mẫu, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước và xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.