Hững hờ với cây trồng tỷ đô
Được đánh giá là “cây trồng tỷ đô”, tuy nhiên sau hơn 10 năm đến với các vùng đất của Việt Nam, macca mới phát triển được khoảng 1.000 ha (đứng thứ 11 trong 17 nước có diện tích macca lớn trên thế giới). Xuất xứ từ Úc, có giá trị dinh dưỡng cao, macca được mệnh danh là “Hoàng hậu” của các loại hạt.
PGS. Phạm Đức Tuấn, Viện phó Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây cho biết, trong nhiều năm qua, macca là cây được nhiều quốc gia trên thế giới đầu tư phát triển. Tuy nhiên, các thống kê cho thấy sẽ còn lâu cung mới đuổi kịp cầu.
Hiện nay, sản lượng macca trên toàn thế giới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu trong khi tốc độ tăng trưởng và thị trường bình quân đạt khoảng 15%/năm. Tuy nhiên, sẽ phải nâng diện tích gấp hàng trăm lần hiện nay mới đủ bão hòa thị trường.
Các dự báo thị trường đều cho rằng, giá nhân macca còn tăng mạnh trong tương lai, dù đang là hàng nông sản đắt nhất thế giới. Với giá bán như hiện nay, 1 ha macca mang tới thu nhập 2.000-3.000 USD cho nông dân (15 USD/kg). Trong sản xuất thức ăn, giá trị có thể gấp 3 lần và trong sản xuất mỹ phẩm, giá trị tăng lên 20 lần, tương đương với 280 USD/kg.
Tiềm năng của cây macca là rất lớn, nhưng những nông dân biết được sự tồn tại của nó lại là số ít. Khi hỏi về hạt macca ở chợ, các tiểu thương vẫn lắc đầu, chứng tỏ họ chưa biết. Như vậy, hạt macca chưa phải là thói quen sử dụng của người Việt Nam. Điều đó dẫn đến đầu ra tiêu thụ của sản phẩm macca hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu.
Ông Nguyễn Ngọc Quyền, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tuy Đức (Đăk Nông) cho biết, việc tổ chức trồng cây macca vẫn mang tính tự phát từ trồng cho tới thu mua. Ông Ba Nhung, một sĩ quan quân đội về hưu ở Đăk Lăk lại cho hay, hiện nay thực trạng trồng cây macca rất manh mún, rời rạc chứ chưa thành trật tự.
Trong khi đó, việc mở rộng diện tích trồng macca lại là vấn đề không đơn giản do loại cây này yêu cầu khí hậu và thổ nhưỡng đặc biệt. Ở Việt Nam nổi lên với 2 vùng khí hậu đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển cây macca là Tây Bắc và Tây Nguyên.
Các vùng khác không có điều kiện thích hợp, nhưng nếu thấy lợi có thể bà con nông dân vẫn trồng. Điều này sẽ dẫn đến nguồn cung ồ ạt, tự phát, Nhà nước khó mà kiểm soát được.
Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn - người đầu tiên đưa cây macca về trồng tại Việt Nam - khuyến cáo, rủi ro cuối cùng là người người nông dân phải gánh chịu. Vì vậy, khi đưa một cây trồng mới vào thì phải thận trọng, khoa học phải đi trước nghĩa là phải kiểm nghiệm trồng ở đâu thì thích hợp cho năng suất cao.
Thứ hai là thị trường, nông dân không thể làm tự phát và tự lo thị trường. Các bộ, ngành hãy kêu gọi DN tự nghiên cứu thị trường rồi bỏ vốn ra xây dựng mô hình cho nông dân và tiêu thụ sản phẩm.
Trong lịch sử nông nghiệp Việt Nam đã có không ít cây trồng được chuyên gia đánh giá là có lợi thế và tiềm năng nhưng sau đó đã thất bại. Có thể thấy rằng, macca đúng là cây trồng tỷ đô, nhưng nếu không có chiến lược quy hoạch, hướng dẫn cụ thể, bà con nông dân rất dễ dẫm lên vết xe đổ của các cây trồng đã từng thất bại ở Việt Nam.
Nếu không cẩn thận, nông dân có thể sai lầm ngay từ khâu chọn giống, khi chọn phải giống không rụng trái hay dễ bị gẫy đổ. Hơn nữa, phải đợi đến 4 năm mới có thể thu lợi từ cây Mắc ca gây khó cho bà con về vốn đầu tư… Vì vậy, với cây macca cần phải có chương trình cụ thể, chủ động trong việc quy hoạch cũng như tiêu thụ.
Ông Ba Nhung góp ý, những người trồng cây Mắc ca nên thành lập câu lạc bộ để giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm cũng như tìm thị trường đầu ra chứ đừng mạnh ai nấy làm. Như mô hình DN cung cấp giống, kỹ thuật, chế biến và tìm thị trường tiêu thụ. Nông dân tự lo phân bón và chăm sóc. Liên kết chặt chẽ giữa DN và nông dân.
Một giám đốc DN đã từng nhiều năm công tác ở Úc nêu thêm vấn đề, 1 kg hạt macca bán ở Việt Nam chỉ với giá 40.000 đồng, trong khi siêu thị của Úc bán gói macca 200 gram đã mười mấy USD. Vậy tại sao chúng ta không cải tiến công nghệ để chế biến sản phẩm tinh chứ không chỉ dừng lại ở sản phẩm thô? Bởi thông qua chế biến thì giá trị có thể tăng gấp 5-10 lần.
Nguồn Thời báo Ngân hàng