Gạo Việt Nam được coi là điểm sáng của thị trường xuất khẩu với giá tăng và sản lượng cũng tăng đều. Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Gạo Việt tăng tốc trên thị trường xuất khẩu lẫn nội địa
Kỳ vọng thị trường xuất khẩu
Với tình hình khả quan của thị trường xuất khẩu, gạo Việt được kỳ vọng sẽ trở thành “hạt vàng” của Việt Nam trong tương lai.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, từ đầu năm 2020 đến nay, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp trên toàn cầu, nhưng xuất khẩu gạo vẫn được coi là điểm sáng nhất của Việt Nam với sản lượng xuất khẩu lên tới 4,5 triệu tấn và trị giá 2,2 tỉ USD. Tuy giảm 1,7% về khối lượng, nhưng lại tăng 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019.
Gạo Việt Nam đang chịu cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia. Ảnh: Lê Hoàng Vũ |
Cũng phải nói thêm, gạo Việt ngày càng đầu tư về tiêu chuẩn kỹ thuật, chăm sóc nhiều hơn về chất lượng, nên ngày càng có chỗ đứng trên thị trị trường thế giới. Gạo Việt Nam đang chịu cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia. Vì vậy, nếu không khẳng định được chất lượng, chắc chắn gạo Việt Nam không có được kết quả xuất khẩu tốt như thời gian qua.
Tuy nhiên, để gạo Việt ngày càng khẳng định uy tín, thương hiệu trên thị trường quốc tế, tạo được nhiều lợi thế trong cạnh tranh, ngoài việc nông dân phải ứng dụng đầy đủ các thành tựu khoa học - kỹ thuật, quy định, tiêu chuẩn vào sản xuất thì Nhà nước cũng cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích đặc thù để hỗ trợ người dân và ngành lúa gạo; kể cả hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng để các hộ nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu.
Với lợi thế từ EVFTA, nếu sản xuất lúa gạo đảm bảo được tất cả các tiêu chuẩn kỹ thuật của châu Âu thì sản phẩm mới bán được vào thị trường Mỹ và duy trì sự ổn định. Đó cũng là cơ hội để các doanh nghiệp hướng tới tiếp tục đầu tư. Như vậy, có thể xem thị trường EU là điểm khởi xuất để gạo Việt Nam đi vào các thị trường chất lượng cao khác. Một khi thị trường EU đã chấp nhận, sẽ giúp tạo thành và củng cố thương hiệu gạo Việt.
Theo một số doanh nghiệp xuất khẩu, áp dụng tiêu chuẩn gạo quốc gia phải nhấn mạnh được truy xuất nguồn gốc, xác định vùng nguyên liệu, thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP) trong các loại cây trồng thì nhà sản xuất, xuất khẩu mới có được chất lượng đồng đều.
Ngày càng được ưa chuộng trên thị trường nội địa
Quay trở lại thị trường nội địa, nếu trước đây người tiêu dùng trong nước thường ưa dùng gạo Thái Lan thì vài năm gần đây, các loại gạo thơm, chất lượng cao của Việt Nam như ST24, ST25, tám thơm Điện Biên, tám xoan Hải Hậu, tài nguyên Chợ Đào, gạo lức huyết rồng... được người tiêu dùng trong nước sử dụng ngày càng nhiều và giá cả cũng tương đối ổn định.
Vài năm gần đây, các loại gạo thơm, chất lượng cao của Việt Nam như ST24, ST25, tám thơm Điện Biên, tám xoan Hải Hậu, tài nguyên Chợ Đào. Ảnh: Qúy Hòa |
Đặc biệt, sau khi gạo ST25 của Việt Nam giành danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới”, đã tạo cơn sốt “săn lùng” loại gạo này ở thị trường trong nước từ cuối năm 2019 đến nay. Nguyên do là gạo ST25 lúc giành “ngôi vương” chỉ mới là sản phẩm sản xuất thử nghiệm nên chưa đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa.
Theo TS. Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn, nhận định, lúa gạo là một trong những ngành hàng thành công nhất thời gian qua. Chất lượng gạo cũng thay đổi và ngày càng được nâng cao.
Thực tế, người dân ngày càng ý thức việc canh tác lúa gạo tại Việt Nam. Thậm chí, hệ thống thủy lợi được đầu tư, xây dựng bài bản nhằm phục vụ sản xuất lúa gạo; hệ thống chế biến, bảo quản tốt...
Cùng với đó, nông dân luôn sẵn sàng tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng, chẳng hạn áp dụng “1 phải, 5 giảm” hoặc “3 giảm, 3 tăng” đã giúp chất lượng gạo ngày càng ổn định hơn.
Có thể bạn quan tâm: