Chủ tịch nước trả lời phỏng vấn về Biển Đông
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc phỏng vấn:
Thưa Chủ tịch nước, xin Chủ tịch cho biết tình hình quan hệ Việt-Trung hiện nay khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam?
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Ngày 2/5, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 tại vị trí nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc đã đơn phương vi phạm thỏa thuận cấp cao hai nước về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề trên biển, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và các thỏa thuận giữa ASEAN-Trung Quốc (DOC).
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn quý trọng và làm hết sức mình để tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc, giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bởi nhân dân ta từng trải qua hàng chục năm bị chiến tranh xâm lược tàn phá và hủy diệt; đồng thời yêu cầu phía Trung Quốc cũng phải làm như vậy.
Như tôi đã nói với cử tri ở Thành phố Hồ Chí Minh khi vừa mới xảy ra vụ việc này, rằng chúng ta không chấp nhận việc bất cứ ai, bất cứ nước nào, dù mạnh đến đâu, bắt ta phải nhượng bộ chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng ta kiên quyết không để một tấc đất, tấc biển nào của Tổ quốc bị xâm phạm. Đối với bất cứ người Việt Nam nào, chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Xin Chủ tịch cho biết, kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 vừa qua đã thể hiện thái độ trước sự kiện này như thế nào?
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Kỳ họp thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã dành thời gian thỏa đáng để thảo luận về vấn đề này. Với lập trường trước sau như một, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị luôn khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, là thiêng liêng, không thể nhân nhượng.
Nhân dân Việt Nam ta, Đảng và Nhà nước ta có đủ bản lĩnh, ý chí kiên cường và quyết tâm, cũng như có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý để đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước. Không thể chấp nhận tình trạng cứ nước mạnh là không tôn trọng đạo lý và lẽ phải. Nhân dân ta từng trải qua và kiên cường trong các cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc từ hàng nghìn năm nay. Vụ việc xảy ra vừa qua, ít thấy nước nào và tổ chức quốc tế nào lên tiếng ủng hộ phía Trung Quốc về việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển của Việt Nam cũng như yêu sách đường lưỡi bò 9 đoạn vô lý. Những bằng chứng lịch sử và pháp lý cho thấy, chính nghĩa thuộc về chúng ta. Thái độ của cộng đồng quốc tế là khá rõ ràng trong việc này.
Chủ tịch đánh giá như thế nào về lòng yêu nước và cách thể hiện lòng yêu nước của nhân dân ta trước việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta?
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Nhân dân ta luôn có truyền thống yêu nước nồng nàn. Mỗi khi độc lập, chủ quyền đất nước bị đe dọa thì nhân dân ta luôn đoàn kết một lòng, đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Tôi hết sức xúc động và trân trọng tinh thần cao cả đó của đồng bào, đồng chí chúng ta. Tất cả đồng lòng hướng về biển Đông. Những người dân bám biển đã kiên cường ở tuyến đầu dù luôn bị tàu Trung Quốc o ép, đe dọa, thậm chí có trường hợp bị đâm chìm. Họ vẫn bám ngư trường truyền thống từ nhiều đời nay của ông cha, không bao giờ bị khuất phục. Các lực lượng bảo vệ pháp luật của Việt Nam không lùi bước, dũng cảm vượt qua mọi thách thức để thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Nhân dân cả nước đã biểu hiện lòng yêu nước bằng rất nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Đồng bào ta ở khắp nơi trên thế giới đã tỏ thái độ mạnh mẽ, lên án việc làm phi pháp của phía Trung Quốc. Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, cần phải cảnh giác với những lời nói và việc làm mang tính kích động, nhân danh lòng yêu nước. Khi đất nước đứng trước những khó khăn, thử thách, thì càng phải đoàn kết. Việc chia rẽ, kích động, rõ ràng không giúp đất nước vượt qua thử thách.
Người dân rất quan tâm đến quan hệ kinh tế giữa nước ta và Trung Quốc. Dư luận cho rằng Việt Nam có thể đã bị lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế. Đề nghị Chủ tịch cho biết ý kiến về vấn đề này?
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Từ khi thực hiện đường lối Đổi mới đến nay, đã gần 30 năm, chúng ta luôn nhất quán thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế sâu rộng với thế giới, đồng thời xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Theo đó, nước ta đã có quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta luôn thực hiện phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, chung sống hòa bình với tất cả các dân tộc trên thế giới trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các nước, chúng ta luôn phấn đấu bảo đảm cùng có lợi và dứt khoát không để phụ thuộc vào bất cứ nước nào trong cả kinh tế và chính trị.
Thực hiện đường lối đối ngoại như vậy, thời gian qua, chúng ta đã thu được những thành tựu rất quan trọng, đất nước ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Nhưng cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, một số lĩnh vực thực hiện không đúng chủ trương này, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
Với Trung Quốc, quan hệ kinh tế, thương mại những năm qua phát triển khá nhanh, nhưng tình hình Việt Nam nhập siêu ngày càng lớn, liên tục diễn ra, đặc biệt là các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Một số sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam quá tập trung vào thị trường Trung Quốc.
Lĩnh vực đấu thầu EPC, BOT và cung cấp thiết bị ở một số ngành quan trọng như điện, thông tin viễn thông và một số ngành kinh tế khác, nhà đầu tư Trung Quốc chiếm tỷ lệ lớn, nhiều dự án chất lượng công nghệ không cao, chi phí đầu tư thường tăng lên so với ban đầu, thời gian hoàn thành kéo dài... Tình hình này cần phải sớm được chấn chỉnh.
Nguồn Vietnam+