kqtkd.ou.edu.vn

 
Hải vân Thứ Bảy | 30/06/2018 16:00

Cải cách: Chệch hướng hay chưa đủ tích cực?

Việt Nam đã có 5% về cam kết cao nhất, nhưng vẫn thiếu 95% về tổ chức thực hiện để đảm bảo cải cách thành công môi trường kinh doanh

Cải cách môi trường kinh doanh và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, Việt Nam muốn tạo ra một sân chơi quốc tế, với các giải pháp toàn diện, thể hiện đầy đủ trong các Nghị quyết 19, 35, 01 và các nghị quyết chuyên đề như 98, 97 hay chương trình hành động của Chính phủ.

Việt Nam đã có được nhiều chủ trương, cam kết từ Trung ương Đảng, Chính phủ và bộ ngành, như Nghị quyết 24 của Quốc hội, các nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ. Chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Võ Trí Thành, cho đây là “một yếu tố quan trọng” để bảo đảm cải cách thành công.

Nhìn vào hiệu quả của cải cách 3 năm vừa qua, Tiến sĩ Thành cho rằng, mục tiêu Việt Nam có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020 còn “rất xa”. Theo ông, số doanh nghiệp văng khỏi thị trường theo nhiều cách khác nhau đã tăng mạnh, chỉ 5 tháng đầu năm 2018 đã có 33.399 doanh nghiệp ngừng hoạt động, tăng 3,9% so với cùng kỳ.

Doanh nghiệp đang có nhiều chỉ số không tăng trong khi năng lực cạnh tranh cũng không tăng lên. Tiến sĩ Thành đặt vấn đề: Cải cách đang chệch hướng hay Chính phủ và các bộ ngành chưa đủ tích cực ?

Thiếu vắng đột phá

Cải cách môi trường kinh doanh, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Ciem), Tiến sĩ Phan Đức Hiếu, khẳng định, đang đứng trước ba thách thức rất lớn: Thời gian, giá trị cho phát triển và tạo ra sự đột phá.

Thứ nhất, thời gian hoàn thành cải cách. Đây là thách thức dễ nhất nhưng nước ta chưa hoàn thành cả về thời gian cũng như yêu cầu công việc, dù đã ban hành tới 5 Nghị quyết 19, từ năm 2014-2018.

Việt Nam muốn so sánh môi trường kinh doanh của mình với 4 nước trong Báo cáo về môi trường kinh doanh 2018, gồm Singapore đứng thứ 2 thế giới, Thái Lan đứng khoảng 24, Malaysia đứng khoảng 26 và cạnh tranh với Phillipines đang ở mức 98. Vào ASEAN 4, Việt Nam đang đứng ở mức 68 sẽ phải cải thiện 28 bậc để vào được top 40 thế giới.

Trước đó, Việt Nam tại Nghị quyết 19 năm 2014, đặt mục tiêu bằng nước trung bình của ASEAN 6. Một năm sau, nước ta đặt mục tiêu bằng nước trung bình của ASEAN 4 và cho đến nay,  vẫn “kiên định” mục tiêu này.

Áp lực về thời gian cũng đặt ra cho việc xóa bỏ điều kiện kinh doanh, một trọng tâm của cải cách lần này.  Trong khi đó, Hàn Quốc đã cải cách dứt điểm quy chế chỉ trong 3 năm. Chính phủ nước này, từ năm 1999 đến 2002, đã rà soát 11.000 văn bản để bãi bỏ hoàn toàn 6.000 văn bản.

Tháng 8.2017, tại Nghị quyết 98, lần đầu tiên Chính phủ yêu cầu các bộ ngành bãi bỏ, cắt giảm từ 30-50% tổng số điều kiện kinh doanh. Tháng 1. 2018, Bộ Công thương là đơn vị đầu tiên và duy nhất hoàn thành việc đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định 08/2018/NĐ-CP  về cắt giảm điều kiện kinh doanh.

Tính đến tháng 6.2018, các bộ ngành hoặc đang trong quá trình rà soát, hoặc đang quá trình xây dựng phương án, chỉ có một bộ đi nhanh hơn bằng việc dự thảo các văn bản ở cấp Nghị định, dự kiến trình Chính phủ thông qua để bãi bỏ điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực của mình.

Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh không chỉ có trong các quy định của Nghị định, mà còn tồn tại ở các luật hiện hành. Trong khi đó, việc sửa luật lại rất khó lượng tính thời gian, nó có thể tính bằng tháng, bằng năm, thậm chí vài năm.

Trường hợp phải sửa luật, không thể tính được Việt Nam sẽ mất thêm bao nhiêu năm nữa để hoàn thành cắt giảm điều kiện kinh doanh theo đúng yêu cầu của Chính phủ. Hai 2 năm tới, nếu hoàn thành cắt giảm điều kiện kinh doanh đã là một thành công.

Thứ hai, tạo thêm giá trị cho phát triển. Đến nay, nước ta vẫn giữ tư duy xóa bỏ rào cản trong môi trường kinh doanh, trong khi các nước trên thế giới đã tiến tới cải cách để thúc đẩy phát triển.

Cải cách ở nước ta, đến nay mới chỉ tập trung hai việc: Xóa bỏ rào cản, tạm gọi là gánh nặng chi phí tuân thủ pháp luật và cắt giảm điều kiện kinh doanh theo Nghị quyết 19 và các nghị quyết liên quan.

Đến nay, nước ta chưa có chủ trương rõ nét ở một loạt các yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Ví dụ, rủi ro pháp lý, một yếu tố tác động mạnh tới sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó, cần đưa ngay các yếu tố này vào trọng tâm cải cách tới đây.

Với thực trạng doanh nghiệp hiện nay, nếu nước ta không thúc đẩy và đưa ra được chính sách cạnh tranh để doanh nghiệp coi đó là động lực, các doanh nghiệp không thể kinh doanh dài hạn và bền vững, nếu phải chịu quá nhiều rủi ro về pháp luật.

Thứ ba, tạo ra sự đột phá. Cải cách môi trường kinh doanh của nước ta đang được thực hiện “dần dần”, trong khi nền kinh tế đang phải “chạy đua” để tạo ra động lực phát triển. Việc thiếu những cải cách mang tính đột phá, khiến nền kinh tế rất khó tạo ra phát triển như kỳ vọng.

Tạo ra ra đột phá, vấn đề không mới ở Việt Nam. Luật Doanh nghiệp năm 2000 đã thành công với đột phá về rút ngắn thủ tục đăng ký thành lập nghiệp, từ 18 tháng xuống 15 ngày, giúp chi phí giảm xuống mức 5-700 nghìn đồng, thay số tiền bằng "vài cây vàng" trước đó. Và sau năm đầu tiên có Luật này, số doanh nghiệp được thành lập mới tăng tương đương 10 năm trước đó.

Bây giờ, Việt Nam đang muốn cải cách môi trường kinh doanh nhưng vẫn “thiếu vắng những cải cách mang tính đột phá”, tạo đà thúc đẩy phát triển cho doanh nghiệp. Thậm chí, thách thức này hiện nay đang bị “chìm đi” trước thách thức tạo thêm giá trị cho phát triển.

Phải tìm ra nội dung chưa cải cách

Trên thực tế, quá trình cải cách từ năm 2014 đến nay đã giúp Việt Nam tăng 5 bậc về năng lực cạnh tranh, tăng 14 bậc về  môi trường kinh doanh, cải cách các chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội có một bước nhảy vọt trong Báo cáo về môi trường kinh doanh năm 2018.

Những kết quả này, Tiến sĩ Hiếu cho là “đáng ghi nhận” nhưng “chưa đúng như kỳ vọng và chưa đúng như yêu cầu cải cách”. Theo ông, thách thức về thời gian, một thách thức dễ thực hiện nhất nước ta vẫn chưa hoàn thành cả về thời hạn cũng như yêu cầu công việc, thách thức về tạo thêm giá trị cho phát triển và tạo ra sự đột phá, đang cùng lúc gia tăng áp lực.

Một hội thảo quốc tế tại Hàn Quốc tháng trước cũng bàn về chủ đề quản trị quốc gia, quản trị cải cách. Các học giả đã trình bày về thời điểm những năm 1960 của Hàn Quốc, khi nước ngày thúc đẩy chính sách xuất khẩu, đích thân Tổng thống Hàn đã họp định kỳ 2 tuần/lần với lãnh đạo các bộ ngành để xử lý những vướng mắc.

Thực ra, cách làm này cũng không mới với Việt Nam. Thời điểm năm 2000, ông Hiếu đang giúp việc cho Tổ công tác triển khai Luật Doanh nghiệp. Ông cho biết, Tổ họp mỗi tuần, xử lý dứt điểm các vấn đề liên quan đến những quyết định hành chính, sự can thiệp trái với nguyên tắc và tinh thần của Luật Doanh nghiệp trên phạm vi cả nước.

Nếu chiểu theo kinh nghiệm cải cách thành công của các nước, vị Phó viện trưởng của Ciem cho rằng, Việt Nam đã có được 5% về cam kết cao nhất và đang thiếu 95% về tổ chức thực hiện đúng thời gian và giải pháp cải cách đột phá.

Với việc Việt Nam đã có được cam kết ở cấp rất cao, Tiến sĩ Hiếu cho là đã “hội tụ đủ” những yếu tố đảm bảo thành công cho một cuộc cải cách. Nhưng vấn đề quan trọng hơn, ông Hiếu nói là “phải tìm ra những nội dung chưa được cải cách một cách tốt nhất”.