Thứ Ba | 12/03/2013 15:10

Cà phê Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại

Ngành cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề về năng suất, chất lượng, giá cả...ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành.
Trong 17 năm, từ 1995 đến nay, ngành cà phê Việt Nam liên tục phát triển và hiện là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực. Riêng năm 2012, xuất khẩu cà phê đạt trên 1,6 triệu tấn, kim ngạch đạt hơn 3,5 tỷ USD và lần đầu tiên vượt qua Brazil đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê.

Cà phê đóng góp 10% GDP nông nghiệp, 5% tổng giá trị xuất khẩu, cung cấp hơn 1 triệu việc làm và tạo 50% sinh kế cho người dân Tây Nguyên, theo ông Lương Văn Tự, chủ tịch Hiệp hội cà phê - cao cao Việt Nam.

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam hiện phải đối mặt với nhiều vấn đề, trong đó có việc nâng cao chất lượng và sự phát triển bền vững trong cả sản xuất và kinh doanh.

Quy mô, quy trình sản xuất phát triển chưa đồng đều

Theo số liệu của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO), từ 1995-2011, diện tích trồng và năng suất cà phê của Việt Nam tăng xấp xỉ 6 lần.

Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT), diện tích trồng cà phê năm 2012 đạt 614,5 nghìn ha, sản lượng đạt trên 1,27 triệu tấn. So với quy hoạch phát triển cà phê đến 2020, diện tích trồng cà phê của Việt Nam đã vượt trên 140 nghìn ha, sản lượng vượt 260 nghìn tấn. Việc này có thể gây một số hệ lụy như sản lượng tăng quá nhanh dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, giá giảm thấp.
Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT
Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT
Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT

Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT

Cũng theo Bộ NN&PTNT, tỷ lệ cây cà phê già cỗi cao là một vấn đề của ngành cà phê Việt Nam. Số cây trên 20 năm trên 86 nghìn ha chiếm 17,3% tổng diện tích cà phê. 40 nghìn ha cà phê dưới 20 tuổi nhưng đã có biểu hiện già cỗi sinh trưởng kém, năng suất và chất lượng quả thấp.

Nguyên nhân của tình trạng này là một phần do tình trạng thâm canh cao dẫn đến sự suy thoái nhanh chóng của diện tích cà phê. Theo FAO, năng suất cà phê Việt Nam giai đoạn 1961-2012 cao hơn năng suất trung bình thế giới 2,5 lần.

Tổng diện tích cà phê già cỗi cần phải trồng thay thế và chuyển đổi trong 5 -10 năm tới khoảng 140 - 160 nghìn ha. Điều này có thể dẫn đến giảm năng suất và chất lượng cà phê Việt Nam trong thời gian tới.
Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT
Nguồn: FAO, Bộ NN&PTNT
Kém cạnh tranh do thiếu sản phẩm chế biến sâu

Năng suất cao nhưng chất lượng thấp, không đồng đều nên giá thấp hơn giá thế giới. Theo số liệu từ ngành nông nghiệp, chỉ có 10% các hộ trồng hái cà phê đã chín, 90% còn lại hái tuốt cà phê quả xanh lẫn quả chín, khiến chất lượng cà phê Việt Nam thấp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến giá cà phê Việt Nam thấp hơn giá cà phê thế giới từ 30-40 USD/tấn. Lượng cà phê có xuất xứ Việt Nam bị loại do không đạt tiêu chuẩn của sàn giao dịch Liffe tại London còn cao.

Niên vụ cà phê 2011-2012, Việt Nam chiếm gần 30% khối lượng cà phê giao dịch nhưng kim ngạch chỉ chiếm 10% trong tổng số giá trị thương mại toàn cầu. Nguyên nhân là do chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cà phê của ta còn hạn chế. Cà phê hòa tan, cà phê rang xay chiếm chưa đến 10% sản lượng.

Theo Vinacafe thì hiện Việt Nam có trên 80 tổ chức xuất khẩu cà phê. Vì vậy, chất lượng cà phê xuất khẩu thuộc các công ty và tổ chức, kể cả nhà nước và tư nhân khó đảm bảo đồng đều, ổn định. Do vậy, giá cà phê Việt Nam khá biến động và thường thấp hơn các nước sản xuất lớn.

Mặt khác, doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn thiếu kinh nghiệm trong giao dịch cà phê quốc tế, trình độ tiếp thị quảng cáo thấp, ít thương hiệu có uy tín do vậy vẫn phải xuất khẩu qua thị trường trung gian nên giá xuất khẩu thấp.

Theo ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Tổng Giám đốc CTCP Vinacafé Biên Hòa, hiện Việt Nam chỉ có 4 thương hiệu cà phê hòa tan và 20 thương hiệu cà phê rang xay, Brazil có đến khoảng 20 thương hiệu cà phê hòa tan và 3.000 thương hiệu cà phê rang xay.
Giải pháp nào cho phát triển ngành cà phê bền vững?
Đối với những vấn đề nêu trên, các chuyên gia trong ngành đã đóng góp nhiều đề xuất để ngành cà phê phát triển bền vững.
Về tiêu thụ, ông Nguyễn Thanh Tùng cho rằng ngoài nâng cao giá trị gia tăng cho cà phê xuất khẩu, việc thúc đẩy tiêu dùng nội địa còn giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nhân có thế mạnh hơn khi đàm phán với đối tác nước ngoài
Về diện tích, sản lượng và xuất khẩu, theo ông Lương Văn Tự, để phát triển cà phê Việt Nam bền vững, cần ổn định diện tích khai thác khoảng 500.000ha với sản lượng từ 1 - 1,1 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn cà phê nhân, giữ được 15% thị phần trên thị trường thế giới.

Ngoài thị trường truyền thống ở các nước châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, cần mở rộng thị trường ra các nước như Trung Quốc, ASEAN đồng thời, đẩy mạnh tiêu thụ trong nước lên mức 10% - 15% tổng sản lượng cà phê. Bên cạnh đó, cần sớm có chiến lược phát triển cho cây và ngành cà phê, tổ chức lại sản xuất theo mô hình liên kết mới, liên kết các nhà trồng cà phê thành cụm để đầu tư chế biến cà phê ướt...
Về chất lượng, TS Misnawi Jati, Viện Nghiên cứu Cà phê - Ca cao Indonesia, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần phải hỗ trợ vốn cho nông dân tái canh để giữ chất lượng cà phê. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần phải thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng và mở rộng diện tích cà phê có chứng nhận.

Nguồn Khampha


Sự kiện