Chủ Nhật | 16/02/2014 21:01

Big Mac Index và câu chuyện tỷ giá tiền đồng

Chắc hẳn không ít người đã bất ngờ khi The Economist cho biết VND đang bị định giá thấp dựa vào chỉ số Big Mac.

Trên bản đồ của chỉ số Big Mac từ nay có thêm Việt Nam
Trên bản đồ của chỉ số Big Mac từ nay có thêm Việt Nam

Bài viết từ Blog Giang Lê - Tiêu đề do Gafin đặt lại

Đầutháng 2/2014 cái tên Việt Nam xuất hiệnrấtnhiềutrên báo chí quốctếnhờvào ... Flappy Bird và McDonald's.Trái vớiFlappy Bird đếnvà đi rấtnhanh, franchise McDonald's đầu tiên của VN đã phải mấtgầnmườinăm mớimởcửađượcvà chắcsẽởlạimảnhđấtnày lâu dài.

NếuThomas Friedman đúng, sựhiệndiệncủaMcDonald's biếtđâu sẽgiúp VN tránh đượcđụngđộquân sựvớianh láng giềngphương Bắc trong những năm tới (*).

TrướcmắtsựhiệndiệncủaMcDonald's đã giúp cho VN lọt vào danh sách thành viên của Big Mac Index(BMI) của tạp chí The Economist. Mặc dù ý nghĩa kinh tế và họcthuậtcủaBMI không đáng kể(ý tưởngBMI có nguồngốctừmộtlờinói đùa), việcVN đượcmộttạpchí kinh tếtài chính hàng đầuthếgiớiquan tâm là mộttín hiệuđáng mừng(**).

Khái niệm ngang bằng sức mua của Cassel

Khi nói về BMI người ta thường đề cập đến khái niệm Ngang bằng sức mua (PurchasingPower Parity - PPP), ở đây tôi sẽ giải thích kỹ hơn về khái niệm này để tránhnhầm lẫn (bạn nào không quan tâm đến học thuật có thể bỏ qua đoạn này).

Trước hết cần phân biệt "lý thuyết" PPP do GustavCassel đưa ra năm 1918 với "tỷ giá" PPP do University of Pennsylvaniađưa ra từ những năm 1960 và hiện được World Bank quản lý. Hai khái niệm này cócùng gốc gác nhưng hiện được sử dụng độc lập với nhau và rất dễ hiểu nhầm.

Gustav Cassel, nhà kinh tế người Thụy điển cùng thời với Keynes và Hayek, đưara ý tưởng xác định tỷ giá giữa 2 đồng tiền dựa vào một qui luật kinh tế khálâu đời là Luật một giá ("Law of OnePrice - LOP).

LOP giả thiết mộtloại hàng hóa nhất định sẽ chỉ có thể có một giá dù được mua bán ở các địa điểmkhác nhau (nếu không arbitrage sẽ nhanh chóng xảy ra và giá sẽ được quân bình).

Cassel cho rằng nếu chi phí vận tải không đáng kể và giữa 2quốc gia không có hàng rào thuế quan thì LOP sẽ dẫn đến việc tỷ giá giữa haiđồng tiền của hai quốc gia đó phải ở mức đảm bảo giá của một mặt hàng giốngnhau ở 2 bên biên giới phải như nhau dù niêm yết bằng đồng tiền nào cũng vậy.

Nói nôm na nếu một chiếc xe hơi ở Mỹ có giá 50000 USD còn ở VN giá 1 tỷ VND thìtỷ giá VNDUSD tuân theo lý thuyết PPP sẽ phải là 20000 VND/USD (giả sử chi phíchuyên chở và thuế quan không đáng kể).

Điều này đảm bảo rằng sức mua của 50000 USD ở Mỹ hay ở VNđều như nhau, hay ngược lại sức mua của 1 tỷ VND ở đâu cũng vậy miễn là haiđồng tiền này được tự do chuyển đổi. Đó là lý do của tên gọi Purchasing PowerParity.

Khi tỷ giá thực tế không đảm bảo LOP hoặc PPP, một đồng tiềnsẽ bị cho là định giá thấp (undervalued) hoặc cao (overvalued) so với đồng tiền kia. Ví dụ nếu giá xehơi ở Mỹ và VN vẫn giữ như trên nhưng tỷ giá thị trường là 21000 VND/USD thìVND bị cho là định giá thấp hay USD bị định giá quá cao.Nói cách khác giá của chiếc xe đó ở VN nếu qui đổi sang USD sẽ là 47679 USD, rẻhơn so với giá ở Mỹ nên LOP không còn đúng nữa và tỷ giá đã không tuân theoPPP.

Giới kinh tế học gọi lý thuyết PPP như trình bày bên trên làPPP theo nghĩa tuyệt đối (absolute PPP) , nghĩa là PPP áp dụng cho mặt bằng giácủa các loại hàng hóa. Mặc dù lý thuyết này rất dễ hiểu và có vẻ chặt chẽ,không cần là chuyên gia kinh tế bạn cũng có thể chỉ ra hàng loạt lý do absolutePPP không thể đúng trên thực tế.

Ai cũng có thể thấy giá (tính ra USD) của rất nhiều mặt hàngở VN khác xa so với giá ở nước ngoài, từ xe hơi, đồ điện tử, cho đến thuốcuống, sữa trẻ em. Trong hàng chục năm qua các nhà kinh tế đã sử dụng rất nhiềukỹ thuật kiểm định từ đơn giản đến hiện đại để tìm cách chứng mình LOP và PPPnhưng đa số đã thất bại.

Bởi vậy một phiên bản PPP ít chặt chẽ hơn được đưa ra, gọilà PPP tương đối (relative PPP). Theo lý thuyết này bất kể LOP hiện tại có đúnghay không tốc độ thay đổi tỷ giá của hai đồng tiền giữa hai thời điểm phải phảnánh tốc độ lạm phát của hai quốc gia.

Quay lại ví dụ giá xe hơi bên trên. Giả sử giá xe năm 2013 là 50000 USD ở Mỹ và1 tỷ VND ở VN, tỷ giá hiện tại là 21000 VND/USD. Nếu trong năm 2014 lạm phát ởVN là 10%, nghĩa là giá xe sẽ tăng lên 1.1 tỷ VND, trong khi lạm phát ở Mỹ chỉlà 2%, giá xe tăng lên 51000 USD, thì tỷ giá sẽ tăng lên 8% (= chênh lệch lạmpháp) nghĩa là 22680 VND/USD. Trong trường hợp này PPP tương đối đúng và sứcmua giữa hai năm 2013 và 2014 không thay đổi. Hay nói theo ngôn ngữ kinh tế họclà tỷ giá thực (real exchange rate) không thay đổi.

Đa số các nhà kinh tế cho rằng PPP tuyệt đối không đúng trênthực tế, may ra PPP tương đối có thể đúng dù có cũng có nhiều lý do ảnh hưởngđến đọ chính xác của nó (vd chi phí vận tải, hàng rào thuế quan, có nhiều loạihàng hóa, dịch vụ không vận chuyển được, bản chất nền kinh tế khác nhau).

Có thể hiểu đơn giản, PPP tuyệt đối liên quan đến mặt bằng giá ở một thời điểm,PPP tương đối liên quan đến tốc độ trượt giá tương đối ở hai thời điểm. Với PPPtuyệt đối bạn có thể nói tại một thời điểm tỷ giá của một đồng tiền bị định giácao/thấp.

Với PPP tương đối có thể nói tốc độ mất giá/ tăng giá củamột đồng tiềngiữa hai thời điểmcó phản ánh đủ chênh lệch lạm pháthay không.

Và Ngang bằng sức mua của World Bank

Cuối thập kỷ 1960 một số nhà kinh tế ở đại học Pennsylvania, cái nôi của hệthống tài khoản quốc gia SNA sau này, nảy ra ý tưởng so sánh GDP (thời đó phổbiến là GNP) của các nước với nhau. Vì GDP của mỗi nước được thống kê bằng đồngnội tệ của mình, muốn so sánh phải chuyển đổi về một đồng tiền chung.

Vấn đề là nếu tỷ giá thị trường tuân thủ theo PPP tuyệt đối thìviệc chuyển đổi mới có ý nghĩa, bằng không một chiếc xe hơi ở nước này khi địnhgiá bằng đồng tiền khác sẽ có thể nhiều hơn hoặc ít hơn một chiếc xe hơi tươngđương ở nước được so sánh.

Trong ví dụ xe hơi đầu tiên khi VN chuyển đổi một chiếc xehơi sản xuất trong nước giá 1 tỷ VND sang USD với tỷ giá 21.000 VND/USD, chiếcxe đó sẽ chỉ bằng 0.95 một chiếc xe sản xuất ở Mỹ.

Như vậy khi tỷ giá thị trường không phản ánh được sức muatương đương cần phải xác định một loại tỷ giá cho mục đích chuyển đổi GDP đểkhông bị tình trạng so sánh cam với táo. Tỷ giá hiệu chỉnh này được gọi là tỷgiá PPP, còn nghiên cứu ban đầu của đại học Pennslvania sau đó được Liên hợpquốc tiếp quản và phát triển gọi là International Comparison Program (ICP).

ICP sau này được chia cho OECD và WB quản lý mà nhiệm vụchính là tính tỷ giá PPP cho từng quốc gia để đảm bảo việc so sánh GDP giữa cácnước có ý nghĩa.

Nếu nền kinh tế chỉ có một loại hàng hoá duy nhất thì việc tính tỷ giá PPP quáđơn giản. Trong ví dụ xe hơi bên trên tỷ giá thị trường là 21.000 còn tỷ giáPPP là 20.000.

Chỉ số BMI tính ngang bằng sức mua cho một loại hàng hóa duy nhất là chiếc bánh của McDonald's
Chỉ số BMI tính ngang bằng sức mua cho một loại hàng hóa duy nhất là chiếc bánh của McDonald's

Tạp chí The Economist đã tính "tỷ giá PPP" dựa vàomột loại hàng hoá duy nhất là chiếc bánh Big Mac của McDonald's cho các nướcthành viên của BMI. Với VN tỷ giá PPP theo BMI là 12,975 VND/USD đảm bảo sứcmua bánh Big Mac ở VN và Mỹ như nhau.

Như vậy với tỷ giá thị trường hiện tại xấp xỉ 21.000 VNDđang bị định giá thấp tính theo sức mua Big Mac. Tất nhiên không nền kinh tếnào đơn giản như vậy mà thường phải có hàng triệu mặt hàng khác nhau, tỷ giáPPP phải đảm bảo tính chất ngang bằng sức mua cho một rổ các loại hàng hoá đó.

Phức tạp hơn, một chiếc xe hơi sản xuất ở VN dù có thể cùnghiệu Toyota nhưng chắc chắn sẽ khác một chiếc Toyota ở Mỹ về nhiều mặt nên dùchỉ cần tính tỷ giá PPP cho xe hơi cũng phải cân nhắc và hiệu chỉnh nhiều thứ.

Chưa kể có những loại hàng hoá dịch vụ ở Mỹ có mà VN khôngcó hoặc ngược lại, hoặc những loại hàng hoá không vận chuyển được như bất độngsản. Bởi vậy việc tính toán tỷ giá PPP vô cùng phức tạp và tốn kém, bản thânUN, OECD và WB cũng chỉ tổ chức khảo sát và ước tính tỷ giá PPP cho các nướcvài năm một lần. Tỷ giá PPP cho dù được tính toán cẩn thận đến đâu cũng khôngthể chính xác và hầu như chỉ để so sánh GDP giữa các nước.

Năm 2012 GDP đầu người của VN do World Bank công bố nếu tính theo tỷ giá thịtrường VNDUSD là 1.750 USD, còn tính theo tỷ giá PPP của chương trình ICP là"3787 international dollar" hay "3.787 dollar at PPP".

Như vậy tỷ giá PPP chỉ bằng 46% tỷ giá thị trường năm 2012,nghĩa là khoảng 9.730 VND/dollar at PPP. Cùng năm đó GDP đầu người của Mỹ là51,749 và Campuchia là 2454 international dollar, như vậy một người VN có sứcmua bằng 7,3% một người Mỹ đồng thời bằng 154,3% một người Campuchia (nếu sosánh theo tỷ giá thị trường thì 2 con số này lần lượt là 3.4% và 185.9%).

Như đã nói bên trên tỷ giá PPP chỉ dùng để so sánh GDP/sứcmua giữa các nước chứ nếu nói VND undervalued vì số 9730 nhỏ hơn số 21,000 sẽkhông chính xác. Tuy nhiên vì international dollar luôn được qui định bằng vớiUSD, nghĩa là GDP của Mỹ tính theo tỷ giá PPP luốn bằng với GDP tính theo"tỷ giá thị trường" nên con số 9787 nói trên có thể hiểu theo nghĩalà tỷ giá VNDUSD tính theo sức mua GDP (do chương trình ICP tính toán, tương tựnhư BMI tính theo sức mua Big Mac do The Economist tính toán).

Bên cạnh hai loại tỷ giá này WB còn tính theo một loại tỷ giá thứ ba áp dụng lýthuyết relative PPP gọi là "dollar by Atlas method". Thực tế đây làmột cách làm tắt, dễ hơn và rẻ hơn so với absolute PPP của chương trình ICP.Phương pháp này tính tỷ giá Atlas để chuyển đổi GNI từ một đồng nội tệ sang dollarbằng cách lấy trung bình tỷ giá thị trường của 3 năm, trong đó 2 năm đầu đượchiệu chỉnh chênh lệch lạm phát như theo relative PPP.

Hiện tại WB thống kê và công bố GNI theo Atlat method chứkhông công bố GDP. Năm 2012 GNI đầu người của VN sử dụng tỷ giá Atlas là 1.550trong khi tính theo tỷ giá PPP là 3.650. Lưu ý tất cả các con số trên đây đềulà danh nghĩa (nominal), nghĩa là không loại trừ ảnh hưởng của lạm phát.GDP/GNI tính theo tỷ giá thị trường, Atlas, hay PPP đều có thể tính theo giá cốđịnh của một năm gốc nào đó (real).
Big Mac Index và tỷ giá tiền đồng

Quay lại BMI và giá một chiếc Big Mac ở SG khi qui đổi sang USD. Chắc hẳn khôngít người đã bất ngờ khi The Economist cho biết VND đang undervalued dựa vàocách tính BMI của họ. Từ trước tới nay có không ít người cho rằng VND đã bịovervalued quá nhiều dẫn đến hàng hoá VN bị mất dần sức cạnh tranh, cả ở trongnước lẫn khi xuất khẩu.

Bản thân tác giả bải viết (Giang Lê) đã không dưới một lầnkhuyến nghị cần phải phá giá VND, nhiều chuyên gia khác cũng có quan điểm nhưvậy (cũng có những người có ý kiến ngược lại).

Vậy có phải phe ủng hộ phá giá đã sai? Tất nhiên lập luận rằngVND đang bị định giá thấp dựa vào PPP tuyệt đối của một mặt hàng duy nhất mớihiện diên ở VN được vài ngày thì chưa chắc đã chính xác. Nhưng vấn đề không chỉcó vậy.

Ở VN mỗi khi một vị quan chức nào đó nói giá điện hay giá xăng ở VN tính ra USDvẫn còn rẻ hơn ở nhiều nước trong khu vực người dân ngay lập tức lập luận rằngnhưng thu nhập của họ gấp mấy lần của ta. Các nhà kinh tế cũng lập luận y nhưvậy, mà cụ thể là những người xây dựng BMI của The Economist. Trên trang webchuyên đề BMI của tạp chí này có đồ thị sau:

Big Mac index so với GDP bình quân đầu người
Big Mac index so với GDP bình quân đầu người

Trục hoành của đồ thị là GDP đầu người danh nghĩa năm 2011 qui đổi ra USD theotỷ giá thị trường (số liệu do IMF công bố, có hơi khác so với số liệu của WB),còn trục tung là giá một chiếc Big Mac qui đổi ra USD theo cùng tỷ giá.

Mỗi điểmtròn trên đồ thị là một nước thành viên của BMI, điểm mầu xanh ở bên cực tráilà VN (tôi vẽ thêm vì The Economist chưa cập nhật).

Đường mầuđỏ là ước lượng tuyến tính (OLS) giữa 2 đại lượng này, nghĩa là với một mức GDPđầu người nhất định chúng ta có thể dự đoán được giá một cái Big Mac là baonhiêu.

Trong một bài báo năm 2011 tạp chí The Economist lập luậnrằng đánh giá mức độ định giá cao/thấp của một đồng tiền dựa vào BMI ít nhấtphải hiệu chỉnh cho mức độ chênh lệch GDP đầu người. Cụ thể là không nên sosánh giá một cái Big Mac ở VN là 2,84 USD với một cái ở Mỹ giá 4,62 USD để kếtluận VND đang bị định giá thấp.

Chính xáchơn phải so sánh giá 2,84 với mức giá trên đường mầu đỏ có vị trí trục hoànhbằng với GDP đầu người của VN (gọi là fitted value hoặc fair value).

Ước lượngcủa tác giả Giang Lê sử dụng số liệu GDP đầu người năm 2012 do IMF công bốfitted value cho Big Mac ở VN là 2.84 USD, nghĩa là tỷ giá thị trường VNDUSDgần như chính xác với tỷ giá absolute PPP tính theo BMI. Không rõ Nguyễn BảoHoàng có dùng công thức này để tính giá cho Big Mac ở SG hay không.

Như vậy sau khi hiệu chỉnh BMI cho GDP theo đầu người, VND gần như đang ở mứcfair value (VN nằm trên đường mầu đỏ). Vậy có cần/nên phá giá VND nữa haykhông?

Như đã nóibên trên không ai dựa vào BMI để ra quyết định về chính sách tiền tệ/tỷ giá.Nhưng ngay cả nếu chỉ nhìn vào đồ thị này thì có lẽ chúng ta vẫn muốn thấy VNnằm bên dưới chứ không phải bên trên đường mầu đỏ. Điểm có khoảng cách xa đườngmầu đỏ nhất ở phía trên là Brazil, còn phía dưới là Hong Kong/Japan.

Nếu chúngta đồng ý rằng Hong Kong và Nhật Bản hấp dẫn hơn là Brazil (về sức cạnh tranh)thì quan điểm vẫn là nên phá giá VND để tính theo BMI đồng nội tệ của VN dướigiá trị từ 30 đến 40% giống như 2 nước châu Á nói trên.

Giang Lê

-------