Thứ Ba | 25/12/2012 21:45

Ba kịch bản xử lý nợ xấu theo chuyên gia kinh tế

Xử lý nợ xấu, sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống là những nhiệm vụ cấp bách được đặt ra cho ngành ngân hàng trong năm 2013.
Tại Hội thảo đánh giá bức tranh toàn cảnh hoạt động ngân hàng năm 2012 và khuyến nghị chonăm 2013 do Học viện Ngân hàng tổ chức ngày 25/12, các chuyên gia đều cho rằng, năm 2012 chủ đề "nợ xấu và tái cơ cấu hệ thốngngân hàng" đã thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội.

Nợ xấu tích tụ từ nhiều năm trước nhưng bộclộ rõ nét trong năm 2012 cả về con số tương đối và tuyệt đối đã buộc các ngân hàng thương mại phảiduy trì thế "phòng thủ" trong hoạt động tín dụng. Do vậy, mức tăng trưởng tín dụng thấp là hoàntoàn phù hợp.

Ông Nguyễn Đức Trung, Viện phó Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng thuộc Học viện Ngân hàng chorằng, khoảng 80% tổng số nợ xấu có tài sản đảm bảo trong đó 57% được đảm bảo bằng bất động sản. ÔngTrung đưa ra 3 kịch bản:

Kịch bản 1, nếu nền kinh tế phục hồi nhanh, việc xử lý tài sản đảm bảo trởnên nhanh chóng. Năm 2013 khi lạm phát được kiềm chế, lãi suất sẽ có xu hướng giảm thì thị trườngbất động sản sẽ khởi sắc trở lại. Trong cả hai trường hợp tỷ lệ nợ xấu theo công bố của Ngân hàngNhà nước hay theo đánh giá của Fitch Ratings thì toàn bộ khoản nợ xấu đều được giải quyết triệtđể.

Đối với kịch bản 2 là nền kinh tế được phục hồi dần dần thì mức độ thu hồi giá trị tài sản đảm bảođạt mức trung bình hòa vốn khoảng 50%. Trong trường hợp này, với mức nợ xấu là 8,82% thì hoàn toànxử lý được, còn với trường hợp nợ xấu là 15% thì khoản nợ xấu còn lại chưa có nguồn xử lý là 75.920tỷ đồng.

Với kịch bản thứ 3, khi nền kinh tế chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái, việc phát mại tài sản đảmbảo vô cùng khó khăn. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp này sẽ tiếp tục khiến giá bất độngsản và tài sản khác giảm sâu thêm. Khi đó, mức độ thu hồi giá trị tài sản đảm bảo sẽ vào khoảng30%.

Ông Trung cho biết thêm, sau khi xử lý tài sản đảm bảo mà vẫn còn lại khoản nợ xấu chưa có nguồn xửlý thì hệ thống ngân hàng phải chấp nhận mất đi một phần vốn tự có của mình được tích lũy từ trướctới nay. Tuy nhiên thực tế điều này rất dễ khiến cho cấu trúc sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng,vốn đang là nút thắt cần tháo gỡ trong tiến trình tái cấu trúc ngân hàng vì gây nên nhiều hệlụy.

Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, cố vấn cao cấp Ngân hàng BIDV nhận định, tốc độ tăng nợ xấu năm nayở mức kỷ lục, ước cả năm tương đương 2008, khoảng trên 70%. Về lợi nhuận, năm nay đa số các ngânhàng giảm 30-60% và nếu tính sâu hơn, một số ngân hàng nhỏ nợ quá hạn 40% thì không còn lợi nhuận.Ông Lực cho biết, câu chuyện năm 2013 sẽ là năm của xử lý nợ xấu, tiếp tục tái cơ cấu, mua bán, sápnhập doanh nghiệp và ngân hàng, thanh lọc hệ thống.

Còn theo TS Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tiền tệ quốcgia, xử lý nợ xấu là trọng tâm giai đoạn 2 của tái cơ cấu ngân hàng. Vấn đề đặt ra làm thế nào đểcác ngân hàng yếu kém đang gây rất nhiều rắc rối cho thị trường tiền tệ, đặc biệt cho việc ổn địnhlãi suất, ổn định thanh khoản cũng phải được xử lý rốt ráo. Cách tốt nhất mà các nước thường làm lànếu ngân hàng yếu kém quá mà tự họ không khắc phục được, các ngân hàng không sáp nhập được với nhauthì Chính phủ đành phải gom họ lại thành một ngân hàng của Chính phủ rồi sau đó quốc hữu hóa đểthực thi các chính sách tiền tệ ổn định trong giai đoạn tái cơ cấu. Sau này, khi ngân hàng đó pháttriển lên thì có thể lại tư nhân hóa, cổ phần hóa.

Ông Nghĩa cũng đề xuất cần kiểm soát lại hoạt động quản trị rủi ro, doanh nghiệp tại các ngân hàngthương mại, đặc biệt những nhà băng đi lên từ nông thôn.

Điều hành lãi suất theo thị trường

Tại hội thảo, các đại biểu đều nhận định năm 2012 thực sự là một năm đầy thách thức cho việc điềuhành của Chính phủ nói chung cũng như của Ngân hàng Nhà nước nói riêng.

Đánh giá về mặt được của Ngân hàng Nhà nước, ông Nghĩa cho rằng trong điều kiện lòng tin suy giảmnghiêm trọng như năm nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn kiềm chế lạm phát, đảm bảo thanh khoản và chấnchỉnh thị trường liên ngân hàng là cố gắng vượt bậc của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, Ngân hàngNhà nước đã điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất theo hướng giảm dần, vì vậy mặt bằng lãi suất chovay giảm đáng kể và phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của những doanh nghiệp.

Ông Phạm Xuân Hòe - Vụ phó Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cho biết, điều hành lãi suấtnăm tới vẫn căn cứ theo tín hiệu của lạm phát. Bên cạnh đó, phải kết hợp với lãi suất đồng ngoạitệ, tỷ giá để bình ổn tốt thị trường tiền tệ, tăng dự trữ ngoại hối, giảm tình trạng đô la hóa. Tuynhiên, căn cứ vào tín hiệu lạm phát vừa qua, ngay từ bây giờ Ngân hàng Nhà nước đang tính tới bướcđi cụ thể và kế hoạch để trả lãi suất về với thị trường.

Ông Hòe cho biết thêm, những năm qua, nền kinh tế dồn áp lực lo vốn quá lớn cho ngân hàng, hệ thốngluôn phải đối mặt với rủi ro, hệ số vay nợ của các doanh nghiệp khá cao. Bên cạnh đó, chỉ số tàichính của doanh nghiệp, điểm xếp hạng tín dụng đang bị giảm sút. Vì vậy, để có đủ điểm tiếp cận tíndụng hay không đang là vấn đề lớn của doanh nghiệp và của các ngân hàng.

Thách thức khác là phải xử lý căn bản căn bệnh thanh khoản của hệ thống tín dụng. Tuy nhiên, cầntiếp tục củng cố sự bền vững, đặc biệt chênh lệch kỳ hạn giữa huy động và cho vay khá lớn. Bởi nếungân hàng huy động 1 tháng, cho vay 6 tháng phải quay vòng tối thiếu 5 lần mới đủ được nguồn vốnđáp ứng cho vay ra 6 tháng. Mỗi lần như vậy, các ngân hàng phải bỏ ra chi phí để bù thanh khoản.Chưa kể, chi phí bù cho phần rủi ro trong môi trường đầy rủi ro nền kinh tế.

"Theo tôi, nên chăng ở thời điểm này, lạm phát thấp, vĩ mô ổn định các ngân hàng thương mại cầnphải hoạch định cơ cấu lại sản phẩm tiền gửi. Đặc biệt chú trọng hơn nguồn tiền gửi trung và dàihạn để cân đối cho phần tài trợ dư nợ trung và dài hạn. Điểm này là then chốt, nếu không thu hẹpchênh lệch giữa kỳ hạn cho vay ra và huy động, vẫn để nó luôn luôn lớn thì rõ ràng thanh khoảnkhông thể giải quyết tận gốc, thì ngân hàng không thể cho vay trung, dài hạn nhiều được," ông Hòenhấn mạnh.

Nguồn Vietnam+


Sự kiện