Hiện nay, người dân ngày càng có xu hướng tìm kiếm các kênh đầu tư hiệu quả hơn thay vì chỉ gửi tiết kiệm truyền thống. Ảnh: shutterstock.com.

 
Kim Dung Thứ Tư | 25/06/2025 07:30

Từ số 0 đến gia sản bạc tỉ

Khi tầng lớp trung và thượng lưu tại Việt Nam gia tăng, quản lý tài sản trở thành một nhu cầu của số đông trên hành trình tìm tự do tài chính.

Năm 2024 Việt Nam có 5.459 cá nhân sở hữu tài sản ròng trên 10 triệu USD, chiếm khoảng 0,2% tổng số người giàu ở mức này trên toàn cầu, theo báo cáo thịnh vượng toàn cầu năm 2025 do Knight Frank công bố. Dữ liệu từ Knight Frank cũng cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ của tầng lớp siêu giàu trên toàn cầu, với số lượng cá nhân sở hữu tài sản từ 30 triệu USD trở lên (UHNWI) dự kiến đạt hơn 802.000 người vào năm 2028, tăng 28,1% so với năm 2023.

Châu Á sẽ là khu vực dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng với mức tăng 38,3%, phản ánh xu hướng chuyển dịch trung tâm tài sản toàn cầu về phía Đông. Đơn vị này cũng dự báo đến năm 2028, Việt Nam sẽ có 978 cá nhân siêu giàu (sở hữu trên 30 triệu USD), tăng 30% so với năm 2023.

Người giàu trỗi dậy 

Chia sẻ với NCĐT, bà Nguyễn Thị Thúy Sơn, Phó Tổng Giám đốc, Khối Quản lý Tài sản, Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ VinaCapital, cho rằng con số hơn 5.000 cá nhân sở hữu tài sản ròng trên 10 triệu USD tại Việt Nam không chỉ là chỉ báo về sự gia tăng của tầng lớp giàu có, mà còn là minh chứng rõ rệt cho sự trưởng thành và sức bật của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Đây là kết quả của nhiều yếu tố như tăng trưởng GDP ổn định, hội nhập quốc tế sâu rộng, vai trò ngày càng lớn của khu vực kinh tế tư nhân và sự chuyển mình mạnh mẽ của doanh nghiệp nội địa, nhiều trong số đó do chính những cá nhân giàu có này sáng lập và điều hành.

“Điều đáng chú ý là tầng lớp giàu có tại Việt Nam đang dần dịch chuyển từ việc sở hữu tài sản chủ yếu là bất động sản sang những hình thức đầu tư đa dạng và chuyên nghiệp hơn như cổ phiếu, quỹ đầu tư, doanh nghiệp gia đình và tài sản toàn cầu. Điều này thể hiện một bước tiến quan trọng trong hành trình hội nhập của giới thượng lưu Việt Nam với chuẩn mực tài chính toàn cầu”, bà Sơn chia sẻ.

Không chỉ dừng lại ở việc tích lũy tài sản, mức độ tạo ra giá trị và quy mô tài sản của tầng lớp giàu có tại Việt Nam đang vươn tầm quốc tế, với nhiều cá nhân và gia đình sở hữu danh mục đầu tư toàn cầu, tham gia vào các thương vụ xuyên biên giới hoặc đầu tư vào các lĩnh vực như công nghệ hay đổi mới sáng tạo.

Theo đại diện của VinaCapital, khả năng kết nối toàn cầu của giới giàu Việt Nam ngày càng rõ nét, thể hiện qua các hoạt động đầu tư ra nước ngoài, sở hữu quốc tịch thứ 2, giao dịch xuyên biên giới, thậm chí là tham gia vào các tài sản số như tiền mã hóa, phản ánh sự linh hoạt và hội nhập sâu rộng với dòng chảy tài chính toàn cầu.

“Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ về quy mô mà còn về chất lượng, với sự nổi lên của một tầng lớp người giàu có tư duy toàn cầu, có trách nhiệm xã hội và sở hữu tầm nhìn dài hạn”, bà Sơn nói thêm.

Theo bảng xếp hạng những tỉ phú giàu nhất thế giới của Forbes, tính đến ngày 12/6, Việt Nam có 4 đại diện trong “bảng vàng tỉ USD” với tổng tài sản đạt khoảng 16,8 tỉ USD. Dẫn đầu là ông Phạm Nhật Vượng với khối tài sản 10 tỉ USD, thuộc Top 300 người giàu nhất thế giới (theo Forbes). Khối tài sản của ông Vượng tăng mạnh trong thời gian qua chủ yếu nhờ đà tăng giá của VIC, VHM, kỳ vọng tăng trưởng từ mảng xe điện VinFast và câu chuyện lên sàn của Vinpearl. 3 đại diện còn lại của Việt Nam trên “bảng vàng thế giới” gồm bà Nguyễn Thị Phương Thảo (2,5 tỉ USD), ông Trần Đình Long (2,3 tỉ USD) và ông Hồ Hùng Anh (2 tỉ USD).

Sự ổn định của nền kinh tế cùng với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, đang mở ra động lực mới cho việc mở rộng tầng lớp trung lưu và thúc đẩy sự gia tăng của nhóm người sở hữu tài sản lớn tại Việt Nam.

Ông Lu Hui Hung, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ Phú Hưng (PHFM), cho rằng sự gia tăng của tầng lớp trung lưu và triệu phú của Việt Nam là kết quả tất yếu của hơn 2 thập kỷ phát triển kinh tế ổn định và cải cách thị trường. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, sự tích lũy của cải của tầng lớp người giàu sẽ mang lại sự ổn định thông qua tiêu dùng trong nước và thúc đẩy đầu tư vào các ngành công nghiệp mới và cải tiến công nghệ. 

Xu hướng này cũng tương tự như ở các quốc gia khác, ví dụ như Trung Quốc đã chứng kiến sự thay đổi tương tự trong 2 thập kỷ qua. Từ năm 2010-2020, tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc đã tăng gấp đôi và vốn tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các lĩnh vực mới nổi như công nghệ và năng lượng xanh thông qua các dịch vụ quản lý tài sản và tài chính. Điều này đã tạo ra một vòng tuần hoàn về tăng trưởng và tái đầu tư. Việt Nam đang bước vào giai đoạn đó.

“Chúng tôi kỳ vọng dòng vốn tư nhân sẽ tham gia nhiều hơn vào sự phát triển của nền kinh tế với sự hỗ trợ về cải tiến chính sách như Nghị quyết 68. Trong bối cảnh này, quản lý tài sản sẽ giúp định hướng vốn vào các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng cao, cho phép nhiều người gia tăng và củng cố tài sản của họ”, Tổng Giám đốc của PHFM chia sẻ.

Định hình bản đồ quản lý tài sản chuyên nghiệp

Từ năm 1990, Việt Nam đã có một loạt sáng kiến và chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. Những sáng kiến này, bao gồm việc đưa ra trái phiếu chính phủ vào năm 1990, mở Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM vào năm 2000 và thành lập công ty chứng khoán đầu tiên của Việt Nam trong cùng năm, đã tạo điều kiện cho đất nước chuyển mình trở thành một thế lực trong khu vực với ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng.

Sau hơn 3 thập kỷ phát triển, thị trường vốn Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể. Tính đến hết ngày 30/5/2025, giá trị vốn hóa cổ phiếu trên HOSE đạt hơn 5,72 triệu tỉ đồng, tăng 11,76% so với tháng trước và tương đương 49,73% GDP năm 2024, chiếm hơn 94,23% tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu niêm yết toàn thị trường.

Cùng với sự phát triển của thị trường vốn, nhu cầu tích lũy và đầu tư tài sản cá nhân cũng gia tăng nhanh chóng. Theo dự báo của McKinsey & Company, đến năm 2027 thị trường tài sản tài chính cá nhân (PFA) tại Việt Nam sẽ đạt khoảng 600 tỉ USD, tăng trưởng 11%/năm so với mức PFA cơ sở khoảng 360 tỉ USD tính đến cuối năm 2022. 

Bước vào kỷ nguyên mới, những chính sách như Nghị quyết 68 không chỉ tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, nơi đóng góp khoảng 50% GDP, mà còn tạo nền tảng cho sự xuất hiện của một thế hệ doanh nhân và nhà đầu tư mới, năng động, bản lĩnh và có tầm nhìn quốc tế. Khi môi trường kinh doanh trở nên thuận lợi, minh bạch và nhất quán hơn, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện tích lũy giá trị, mở rộng quy mô và từ đó tạo ra sự gia tăng đáng kể về tài sản ròng cho chủ sở hữu.

“Chúng tôi tin rằng tương lai của ngành quản lý tài sản tại Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở việc phục vụ nhu cầu đầu tư, mà còn đồng hành cùng khách hàng trong hành trình xây dựng di sản, quản trị tài sản gia đình đa thế hệ và đóng góp tích cực cho cộng đồng thông qua các chiến lược đầu tư ESG (môi trường - xã hội - quản trị) và các sáng kiến thiện nguyện. Đây không chỉ là xu hướng toàn cầu, mà còn là sứ mệnh mà chúng tôi theo đuổi tại VinaCapital để đồng hành phát triển cùng một tầng lớp người giàu có chiều sâu, có trách nhiệm và có tầm nhìn dài hạn cho tương lai Việt Nam”, bà Thúy Sơn của VinaCapital chia sẻ với NCĐT.

Hiện nay, so với các nước phát triển, thị trường quản lý tài sản ở Việt Nam còn non trẻ. Khách hàng còn thiếu niềm tin vào các tổ chức tài chính và thường có xu hướng tự quản lý tài sản của mình. Nhiều nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam vẫn có tâm lý muốn chốt lời nhanh, không chấp nhận mức sinh lời ổn định theo năm. Điều này đôi khi mâu thuẫn với mục tiêu của hoạt động quản lý tài sản chuyên nghiệp. Do đó, thị trường cần thêm các công cụ và khung pháp lý rõ ràng để phát triển bền vững và minh bạch. Các công ty quản lý tài sản cần cải tiến, số hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của khách hàng.

Hiện nay, người dân ngày càng có xu hướng tìm kiếm các kênh đầu tư hiệu quả hơn thay vì chỉ gửi tiết kiệm truyền thống. Họ muốn đa dạng hóa danh mục đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu, bất động sản, vàng và các sản phẩm tài chính khác để tối ưu hóa lợi nhuận.

Trong khi đó, thị trường tài chính ngày càng phức tạp với nhiều loại sản phẩm và biến động khó lường. Điều này thúc đẩy nhu cầu tìm đến các chuyên gia quản lý tài sản để được tư vấn, phân tích và đưa ra các chiến lược đầu tư phù hợp.

Không chỉ dừng lại ở đầu tư, nhiều cá nhân và gia đình còn có nhu cầu về quản lý tài chính toàn diện, bao gồm lập kế hoạch hưu trí, kế hoạch giáo dục con cái, bảo hiểm, thừa kế và quản lý thuế...

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga, Tổng Giám đốc Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank (VCBF), cho rằng khi khu vực tư nhân trở thành trụ cột phát triển của nền kinh tế, việc nâng cao năng lực tài chính và quản trị tài sản của các chủ doanh nghiệp không còn là lựa chọn, mà là một yêu cầu tất yếu. Các đơn vị quản lý gia sản với vai trò trung gian tài chính chuyên nghiệp, không chỉ đóng góp vào việc khai thông dòng vốn, mà còn là đối tác chiến lược giúp doanh nghiệp và doanh nhân bảo vệ và phát triển tài sản, một nền tảng quan trọng để kinh tế tư nhân có thể bứt phá mạnh mẽ trong kỷ nguyên vươn mình của quốc gia. 

Khi ấy, các chuyên gia quản lý gia sản đóng vai trò như một “kiến trúc sư tài chính” cho chủ doanh nghiệp, những người không chỉ nắm giữ khối tài sản lớn mà còn đối mặt với yêu cầu ngày càng cao về bảo toàn, tăng trưởng và chuyển giao tài sản một cách hiệu quả qua nhiều thế hệ.

Nhiều cá nhân và gia đình còn có nhu cầu về quản lý tài chính toàn diện, bao gồm lập kế hoạch hưu trí, kế hoạch giáo dục con cái, bảo hiểm, thừa kế và quản lý thuế... Ảnh: shutterstock.com.
Nhiều cá nhân và gia đình còn có nhu cầu về quản lý tài chính toàn diện, bao gồm lập kế hoạch hưu trí, kế hoạch giáo dục con cái, bảo hiểm, thừa kế và quản lý thuế... Ảnh: shutterstock.com.

“Yêu cầu với các chuyên gia quản lý gia sản sẽ rất cao. Họ phải phát triển năng lực đa ngành và có tư duy tư vấn mang tính cá nhân hóa cao. Chủ doanh nghiệp không chỉ cần sản phẩm tài chính. Họ cần một đối tác có thể hiểu được văn hóa doanh nghiệp của họ, sứ mệnh gia đình họ và những rủi ro đặc thù trong ngành nghề của họ. Hiện tại, ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ có nhà cung cấp dịch vụ quản lý tài sản, dịch vụ quản lý gia sản mới chỉ manh nha hình thành, chủ yếu nằm ở dịch vụ ngân hàng cao cấp của một số ngân hàng. Thời gian tới, chúng ta sẽ thấy sự phát triển mạnh mẽ của mảng này, đặc biệt là mảng dịch vụ ngân hàng cao cấp”, bà Hằng Nga của VCBF nói với NCĐT.

Mặt khác, sự chuyên nghiệp hóa của dịch vụ quản lý tài sản sẽ tiến đến trước cá nhân hóa sản phẩm và dịch vụ (client-centricity): thay vì cung cấp các gói dịch vụ “một kích thước phù hợp cho tất cả”, các công ty tập trung vào việc tạo ra những sản phẩm và dịch vụ tài chính chuyên biệt, phù hợp với nhu cầu, mục tiêu tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của từng nhóm khách hàng như nhóm siêu giàu (UHNWI), nhóm giàu có (HNWI), tầng lớp trung lưu mới nổi.

Bên cạnh đó là mảng tư vấn tài chính toàn diện, bao gồm không chỉ đầu tư mà còn lập kế hoạch hưu trí, kế hoạch giáo dục con cái, bảo hiểm, quản lý thuế, kế hoạch thừa kế, thậm chí cả các dịch vụ phi tài chính như kết nối kinh doanh, lối sống cao cấp cho khách hàng cao cấp. Xu hướng tập trung vào “trải nghiệm khách hàng số” (digital client experience) và xây dựng dịch vụ tư vấn “lai” (hybrid advisory) kết hợp giữa chuyên gia con người và công nghệ sẽ là chìa khóa để thu hút khách hàng trong tương lai.

Ở góc nhìn là nhà đầu tư nước ngoài, Tổng Giám đốc của PHFM đánh giá Nghị quyết 68 là bước đi táo bạo và hoàn toàn có chiến lược cụ thể. Nghị quyết này gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng Việt Nam đang muốn phát huy hết sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, không chỉ các tập đoàn lớn mà cả những doanh nghiệp nhỏ và các doanh nhân, cá nhân cũng được chú trọng phát triển. Nghị quyết này thúc đẩy một nền văn hóa tạo ra tài sản tích lũy một cách hợp pháp, công bằng và toàn diện, mở ra cơ hội cho mỗi hộ gia đình đều có thể khởi nghiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm ngày xưa, giữ của cải trong dân.

“Nghiên cứu từ Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) chỉ ra rằng một khu vực có nền kinh tế tư nhân mạnh mẽ sẽ nâng cao năng suất quốc gia, tăng khả năng chống chịu trước các cú sốc toàn cầu và góp phần tạo nên của cải quốc gia. Mục tiêu là đến năm 2030 các doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng góp hơn 60% GDP. Vì vậy, nghị quyết này không chỉ nhằm hỗ trợ kinh doanh mà còn hướng tới xây dựng một xã hội, nơi mỗi người Việt Nam đều có thể trở thành thành phần chủ động trong nền kinh tế, chứ không chỉ là người nhận lương”, ông Lu Hui Hung của PHFM chia sẻ.