Sự gia tăng xuất khẩu sang Mỹ đã hỗ trợ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024. Ảnh: shutterstock.com
Dò đáy, phá đỉnh 2025
Vào 2 ngày cuối cùng của tháng 9/2024, dòng chữ phiên âm Hán Việt: “Việt Nam thủy quả - Tứ quý mỹ vị” xuất hiện nổi bật trên cổng chào Trung tâm Phân phối nông sản Tân Phát Địa, quận Phong Đài (thành phố Bắc Kinh). Dòng chữ có ý nghĩa là “Trái cây Việt Nam - Bốn mùa vị ngon”, đánh dấu lần đầu tiên doanh nghiệp Việt tổ chức lễ hội trái cây tại thủ đô của đất nước tỉ dân.
Ở Bắc Kinh, tỉ lệ tự cung cấp nông sản rất thấp. Hầu hết nông sản phục vụ tiêu dùng đều đến từ các tỉnh, thành khác của Trung Quốc hoặc nhập khẩu từ nước ngoài. Hiện Tân Phát Địa là chợ đầu mối hoa quả lớn nhất thành phố, phân phối 90% lượng rau, củ, quả chính ngạch cho 22 triệu người dân Bắc Kinh, chưa tính một số địa phương lân cận.
Nhiều công ty lớn xuất khẩu trái cây, sản phẩm chế biến từ trái cây của Việt Nam đã xuất hiện tại lễ hội nói trên để giới thiệu nông sản. “Doanh nghiệp cùng quảng bá sản phẩm ngay tại chợ trung tâm Trung Quốc chứ không đi men theo chợ đường biên nữa”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan nói trong cuộc họp tổng kết năm 2024 của ngành. Đối với ông Hoan, đây là câu chuyện giàu cảm xúc để các hiệp hội, ngành hàng khác nhìn và học cách bước đi cùng nhau, tới một đất nước có tiềm năng rất lớn cho thương mại Việt Nam.
Xuất khẩu: Lo trên đỉnh cao
Việc tích cực đàm phán, thúc đẩy giao thương giữa Việt Nam với thị trường láng giềng 1,4 tỉ dân cùng các thị trường lớn khác như Mỹ, châu Âu, châu Đại Dương đã giúp kim ngạch xuất khẩu ngành rau quả tăng trưởng lần lượt 67% và 27% trong năm 2023 và 2024, theo ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau Quả Việt Nam. Năm 2015 giá trị xuất khẩu rau quả chỉ ở mức 1,85 tỉ USD. 10 năm sau, con số này đạt 7,12 tỉ USD (năm 2024).
Chỉ trong thời gian ngắn, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sản và hiện là nhà cung cấp xếp thứ 2 tại thị trường lớn nhất thế giới về nhập khẩu rau quả là Trung Quốc. Tính chung, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông lâm thủy sản năm 2024 đạt 62,5 tỉ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ. Trong đó, thặng dư thương mại đạt 17,9 tỉ USD, chiếm tới hơn 70% tổng thặng dư quốc gia.
Năm 2024 xuất khẩu đạt kỷ lục với hơn 400 tỉ USD, nhiều mặt hàng chủ lực tăng trưởng vượt kỳ vọng. Trong năm nay, xuất khẩu vẫn được kỳ vọng tiếp tục là một trong những động lực chính của nền kinh tế, bởi đây là đầu ra của nhiều ngành công nghiệp.
Cụ thể hơn, trong năm 2024, có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, trong đó, 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỉ USD. Những mặt hàng này góp phần giúp Việt Nam xuất siêu 24,77 tỉ USD. Đáng chú ý, xuất siêu sang Mỹ đạt 104,6 tỉ USD, tăng 25,6% so với năm 2023.
Hiện Việt Nam đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Mexico) về mức độ liên kết chặt chẽ với Mỹ và cũng có thặng dư thương mại lớn thứ 3 với Mỹ, theo thông tin từ ông Michael Kokalari, CFA, Giám đốc Phòng Phân tích Kinh tế vĩ mô và Nghiên cứu thị trường của VinaCapital.
Sự gia tăng xuất khẩu sang Mỹ đã hỗ trợ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024. Nhưng bức tranh xuất khẩu có lẽ sẽ khác vào năm 2025. Vị chuyên gia nhận định, tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ có thể chậm lại. Nguyên nhân một phần do nền kinh tế số 1 thế giới có khả năng sẽ trải qua một đợt suy giảm kinh tế. Mặt khác, xuất khẩu toàn châu Á được thúc đẩy bởi sự đón đầu nhu cầu trước khi ông Donald Trump nhậm chức Tổng thống Mỹ. Yếu tố này giảm dần vào năm sau, kéo theo đà tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam.
“Xuất khẩu chậm lại đối với tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2025, nhưng các sáng kiến của Chính phủ và tâm lý người tiêu dùng cải thiện có thể giúp duy trì mức tăng trưởng GDP từ 6,5-7% trong năm 2025. Cơ cấu tăng trưởng chuyển sang các yếu tố nội tại nhiều hơn”, ông Michael Kokalari nói.
Các tổ chức như IMF, World Bank, ADB đều dự báo con số tăng trưởng tích cực của nền kinh tế thế giới trong năm 2025 (tương đương hoặc cao hơn năm 2024). Song báo cáo thường niên của Đại học Kinh tế TP.HCM chỉ ra, với những bất ổn đang hiện hữu (xung đột vũ trang kéo dài; căng thẳng địa chính trị và chiến tranh thương mại; thiên tai; những rủi ro nội tại của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc hay Ấn Độ), nền kinh tế thế giới vẫn phải đối mặt với khả năng suy giảm tăng trưởng trong năm 2025. Ngoài ra, nếu Tổng thống đắc cử Donald Trump hiện thực hóa chính sách tăng thuế nhập khẩu mà ông đề xuất khi tranh cử, thì rủi ro suy giảm đối với thương mại toàn cầu là rất lớn, đặc biệt trong nửa cuối năm 2025. Kịch bản này nếu xảy ra cũng gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Về vấn đề này, theo các chuyên gia từ HSBC Việt Nam, các đề xuất của Đảng Cộng hòa (Mỹ) trong quá trình tranh cử bao gồm áp dụng mức thuế 60% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và mức thuế 10-20% đối với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên, nhìn lại dữ liệu quá khứ, kể từ năm 2018 khi Mỹ bắt đầu áp đặt hàng rào thuế quan lên Trung Quốc, Việt Nam đã giành được thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ.
Ông Nguyễn Xuân Thành, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, Đại học Fulbright Việt Nam, cho rằng để tránh tác động lạm phát tới Mỹ, đa phần việc áp thuế sẽ chỉ trên danh mục hàng hóa giới hạn hoặc nhắm đánh thuế cao hơn đối với một số đối tác cụ thể, trong đó có Trung Quốc. Thách thức của Việt Nam là không để đưa vào tầm ngắm bị đánh thuế cao hơn. Nếu hàng Việt Nam bị đánh thuế cao hơn, sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, khó đạt được con số tăng trưởng xuất khẩu ở mức 14% như năm 2024.
Sự gia tăng xuất khẩu sang Mỹ đã hỗ trợ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024. Ảnh: shutterstock.com |
Nhìn tổng quan, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính, Tiền tệ Quốc gia, cho rằng việc Việt Nam muốn tăng trưởng đột phá vào thời điểm này là một thách thức. Bởi vì, kinh tế toàn cầu đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chậm lại, trong khi rủi ro địa chính trị còn cao, rủi ro chính sách thương mại toàn cầu bắt đầu tăng vọt. “Đặc biệt, bảo hộ thương mại được dự báo tăng 3 lần so với năm 2019. Điều tra bán phá giá sẽ là công cụ khá phổ biến trong năm nay”, Tiến sĩ Cấn Văn Lực cảnh báo.
Doanh nghiệp thận trọng
Kịch bản tăng trưởng nào của nền kinh tế cũng cần doanh nghiệp tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), lưu ý thêm áp lực từ giá dầu, hàng hóa thế giới và biến động tỉ giá có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, nhập khẩu và sức mua. Cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức như phí đầu vào còn cao, đơn hàng không phục hồi đồng đều và thiếu bền vững, yêu cầu số hóa và xanh hóa gia tăng từ các thị trường.
Trước những yếu tố khó đoán định, một số doanh nghiệp có vốn nhà nước đã đề ra mục tiêu khá thận trọng cho năm mới. Vietnam Airlines, chẳng hạn, đặt mục tiêu doanh thu năm 2025 đạt 95.600 tỉ đồng và lợi nhuận trước thuế 2.176 tỉ đồng, giảm lần lượt 17% và 70% so với ước tính năm 2024.
Tổng Công ty Cổ phần Vận tải Dầu khí đặt mục tiêu tổng doanh thu hợp nhất 10.300 tỉ đồng và lợi nhuận trước thuế 1.200 tỉ đồng, giảm lần lượt 14% và 33% so với ước tính năm 2024. Hay Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí đặt mục tiêu doanh thu năm 2025 đạt 7.200 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế 530 tỉ đồng, lần lượt giảm 20% và 16%.
Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam dự kiến tổng doanh thu và thu nhập khác năm 2025 đạt 27.494 tỉ đồng, tăng 4,5% so với ước tính năm 2024; chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế và sau thuế lần lượt là 4.658 tỉ đồng và 3.929 tỉ đồng, tăng khoảng 5%. Tập đoàn Dệt May Việt Nam kỳ vọng tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận năm 2025 lần lượt là 6% và 10% so với cùng kỳ.
“Nếu xuất khẩu suy giảm như dự báo thì động lực cho tăng trưởng có thể là tiêu dùng trong nước hay không?”. “Đây vẫn là dấu hỏi lớn”, ông Thành trả lời Tạp chí NCĐT và phân tích 3 yếu tố khiến sức mua của dân cư còn yếu trong thời gian qua.
Người tiêu dùng có nhiều lựa chọn, đòi hỏi cao hơn về chất lượng, giá trị và trải nghiệm sản phẩm. Ảnh: shutterstock.com |
Thứ nhất, tác động lâu dài của đại dịch lên thu nhập người lao động. Một bộ phận lớn người lao động đã phải sử dụng các khoản tiết kiệm để duy trì mức sống trong thời gian COVID-19. Họ mang tâm lý rất thận trọng, dẫn đến tình trạng thắt lưng buộc bụng. Thứ 2, sự suy giảm về xuất khẩu trong năm 2023 đã làm giảm việc làm trong các khu công nghiệp Việt Nam. Thứ 3, một bộ phận người có thu nhập ở tầng lớp trung lưu bậc trên cũng bị tác động bởi các khoản tiết kiệm, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp. Họ quan ngại liệu có nhận được lãi, vốn gốc hay sẽ bị thua lỗ trong các khoản đầu tư đó. Điều này cũng dẫn tới tâm lý không dám tăng mạnh chi tiêu cho tiêu dùng.
Nhóm chuyên gia của Đại học Kinh tế TP.HCM cũng nhận định, trong năm 2025 tiêu dùng sẽ tiếp tục phục hồi khiêm tốn. Nguyên nhân là tiêu dùng của cư dân chịu nhiều tác động tiêu cực từ các cú sốc giá cả; tâm lý phòng ngừa trước những rủi ro, bất định; thu nhập hiện tại và kỳ vọng về nền kinh tế cũng như thu nhập trong tương lai. Do đó, Chính phủ cần nhanh chóng xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân và tăng mức giảm trừ gia cảnh nhằm hỗ trợ người dân vượt qua các cú sốc về giá cả, thúc đẩy tiêu dùng trong nước, tránh để nền kinh tế rơi vào vòng xoáy tiêu dùng thấp - tổng cầu thấp - thu nhập thấp - tiêu dùng thấp.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Phan Minh Thông, Chủ tịch Công ty Cổ phần Phúc Sinh, cho rằng đối với các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu, việc đưa sản phẩm trở về nội địa - nơi tưởng chừng quen thuộc, cũng không phải là hành trình dễ dàng. Nguyên nhân đầu tiên đến từ sự cạnh tranh khốc liệt. Thị trường trong nước hiện đã rất sôi động với sự hiện diện của cả thương hiệu nội địa lẫn quốc tế. Người tiêu dùng có nhiều lựa chọn, đòi hỏi cao hơn về chất lượng, giá trị và trải nghiệm sản phẩm.
Ngoài ra, nghịch lý là người Việt đánh giá cao sản phẩm nhập khẩu hơn, ngay cả khi các sản phẩm trong nước đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây không phải là vấn đề về chất lượng, mà là vấn đề về tâm lý. Cuối cùng, các doanh nghiệp xuất khẩu thường quen sản xuất quy mô lớn và đáp ứng nhu cầu đối tác quốc tế. Khi chuyển hướng về nội địa, doanh nghiệp sẽ phải thích nghi với mô hình phân phối phức tạp hơn, phục vụ trực tiếp người tiêu dùng cuối cùng. Điều này đòi hỏi sự đầu tư mạnh vào hệ thống bán lẻ, thương mại điện tử và trải nghiệm khách hàng.
Đi tìm động lực mới
Quốc hội quyết nghị mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 là 6,5-7%, phấn đấu đạt 7-7,5%, còn Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng trên 8%, thậm chí cao hơn, đó là tăng trưởng 2 con số. Lúc này, theo ông Thành của Đại học Fulbright, Chính phủ định hướng ưu tiên vô cùng cao để đạt tốc độ tăng trưởng vượt bậc trong năm 2025. Do đó, điều hành cả chính sách tiền tệ lẫn tài khóa sẽ theo hướng hỗ trợ mạnh mẽ cho tăng trưởng.
Báo cáo công bố hồi đầu tháng 1 của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho thấy, chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) tại Việt Nam đã đạt mức cao nhất trong hơn 2 năm qua. BCI tăng vọt từ 46,3 trong quý IV/2023 lên 61,8 trong quý IV/2024, phản ánh tinh thần lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu về triển vọng kinh tế Việt Nam.
Còn đại diện VinaCapital cho rằng, mục tiêu lạc quan của Chính phủ và các hành động quyết đoán là cần thiết để bù đắp tác động của việc sụt giảm xuất khẩu sang Mỹ dự kiến trong năm tới. Dẫu vậy, những sáng kiến như kéo dài thời gian giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% thêm 6 tháng nữa còn khiêm tốn để có tác động thực sự đến tăng trưởng GDP năm 2025. Trong khi đó, kế hoạch tinh giản bộ máy Nhà nước sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng dài hạn của Việt Nam, nhưng không thúc đẩy tăng trưởng GDP trong năm 2025.
Do vậy, ông Michael Kokalari kỳ vọng vào 2 yếu tố bù đắp là đầu tư công và khôi phục thị trường bất động sản. Bởi lẽ, trong ngắn hạn, Chính phủ có thể sẽ chi tiêu nhiều hơn nữa vào phát triển cơ sở hạ tầng, nhờ vào tình hình tài chính vững mạnh (nợ công hiện dưới 40% GDP). Cùng với đó, thị trường bất động sản phục hồi sẽ có tác động lớn hơn nhiều đối với tâm lý tiêu dùng so với việc tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Trong nửa đầu năm, sự suy giảm tăng trưởng xuất khẩu có thể sẽ tác động mạnh hơn đến tăng trưởng GDP của Việt Nam so với kỳ vọng của nhiều nhà kinh tế. Sự giảm sút này sẽ thúc đẩy các hành động quyết liệt của Chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế, trong bối cảnh các mục tiêu tăng trưởng GDP cao. Kết quả cuối cùng có thể là tăng trưởng giảm sút vào đầu năm, theo sau là sự tăng tốc mạnh mẽ vào cuối năm.
Tăng trưởng doanh thu bán lẻ thực tế (loại trừ tác động của lạm phát) ước tính đạt khoảng 6% trong năm 2024, thấp hơn mức tăng trưởng 8-9% điển hình ở Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng một nửa trong con số 6% này là do sự phục hồi liên tục của lượng khách du lịch quốc tế trong năm 2023 và năm 2024. Hiện tiêu dùng chiếm hơn 60% nền kinh tế Việt Nam (so với khoảng 25% của ngành sản xuất). Do vậy, nếu tiêu dùng tăng trưởng mạnh, sẽ dễ dàng bù đắp cho sự suy giảm trong tăng trưởng xuất khẩu và các yếu tố khác trong năm 2025.
Trong khi đó, ông Suan Teck Kin, Giám đốc Điều hành Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore), nhận định, dù xuất nhập khẩu của Việt Nam gặp một số rủi ro nhất định, nhưng đây cũng chính là thời điểm để Việt Nam chủ động mở rộng và tìm kiếm thêm cơ hội ở các thị trường khác. “Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng nếu xuất khẩu sang thị trường này gặp khó khăn, Việt Nam hoàn toàn có thể gia tăng xuất khẩu sang châu Âu, Tây Âu, Đông Âu và các quốc gia khác”, ông Suan Teck Kin cho biết.
Báo cáo công bố hồi đầu tháng 1 của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho thấy, chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) tại Việt Nam đã đạt mức cao nhất trong hơn 2 năm qua. Ảnh: QH |
Đồng thời, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa nguồn nhập khẩu để tránh tình trạng phụ thuộc quá mức vào một thị trường cụ thể. Không chỉ tập trung vào thị trường, Việt Nam còn cần mở rộng danh mục các mặt hàng xuất khẩu để giảm thiểu rủi ro từ sự phụ thuộc vào các mặt hàng trọng điểm. “Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể, chẳng hạn như đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm du lịch và giáo dục”, ông đề xuất.